しかく Cuộc khảo sát được thực hiện nhằm nắm bắt hoàn cảnh của người lưu trú nước ngoài và các vấn đề mà họ phải đối mặt trong bối cảnh nghề nghiệp, sinh hoạt
hằng ngày và sinh hoạt xã hội một cách chính xác nhất có thể, góp phần hoạch định và xây dựng các chính sách chung sống với người nước ngoài. Đây là cuộc
khảo sát thứ 4 thuộc loại này, tiếp theo cuộc khảo sát được thực hiện vào năm tài chính 2022.
しかく Tại khảo sát này, ngoài việc đã thực hiện khảo sát về các vấn đề, v.v. phát sinh khi tiến hành tư vấn về những vấn đề trong sinh hoạt đối với người lưu trú nước
ngoài, chúng tôi còn thực hiện khảo sát mới lấy đối tượng là cơ quan đang tiếp nhận người nước ngoài (sau đây gọi tắt là "cơ quan trực thuộc, v.v." và người
nước ngoài đang trực thuộc/đăng ký tại cơ quan trực thuộc, v.v. gọi tắt là "người nước ngoài trực thuộc") về các vấn đề khi hỗ trợ người nước ngoài, tập trung
vào hỗ trợ tư vấn cho người nước ngoài trực thuộc.
しかく Tổ chức "Cuộc họp Ủy ban chuyên gia cho Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm 2023" để mở rộng phạm vi khảo sát, và các chuyên gia hiểu biết rõ
về các chính sách chung sống với người nước ngoài đã áp dụng các kiến thức chuyên môn, hiểu biết sâu sắc và triển khai tầm nhìn toàn cảnh hơn trong việc xác
định các mục khảo sát và tổng hợp kết quả khảo sát, v.v.
⇒ Bằng việc lập kế hoạch, soạn thảo và thực hiện các chính sách chung sống với người nước ngoài dựa trên kết quả khảo sát, toàn thể chính phủ sẽ nâng
cao "Lộ trình hướng đến việc thực hiện một xã hội chung sống với người nước ngoài" và "Các biện pháp toàn diện để chấp nhận và chung
sống với nhân lực người nước ngoài" nhằm thực hiện một xã hội chung sống với người nước ngoài.
Mục đích khảo sát
Đối tượng khảosát Tổng số 20,000 người lưu trú trung và dài hạn và người vĩnh trú đặc biệt từ 18 tuổi trở lên
*Chỉ những người đã có mặt thực tế ở trong nước ít nhất một năm kể từ lần được phép nhập cảnh gần đây nhất tại thời điểm ngày 15 tháng 8
năm 2023.
*Người trả lời được chọn ngẫu nhiên dựa trên số mẫu chia theo quốc tịch/khu vực và tư cách lưu trú, được xác định bằng cách tham khảo số
liệu thống kê về người lưu trú nước ngoài (tính đến cuối tháng 12 năm 2022).
Số lượng trả lời
hợp lệ
 Số bản khảo sát được gửi đi: 20,000 bản (410 trong số đó là không gửi được)
 Số trả lời hợp lệ: 6,154 bản/tỷ lệ trả lời 31.4%
Phương thức
khảo sát
 Khảo sát được thực hiện trên web (hình thức là một lá thư yêu cầu hợp tác và bao gồm mã vạch hai chiều được gửi đến người thuộc đối
tượng khảo sát, và người đó sẽ đọc mã vạch này để trả lời bảng câu hỏi trực tuyến).
 Màn hình trả lời hỗ trợ 8 ngôn ngữ (tiếng Nhật có kèm phiên âm, tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Việt, tiếng
Philippines và tiếng Nepal).
Mục khảo sát
しかく Cuộc khảo sát nhằm vào các vấn đề liên quan đến các hạng mục sau đây, chẳng hạn như các vấn đề phát sinh khi người lưu trú nước ngoài
nhờ tư vấn về các vấn đề trong sinh hoạt.
Đối tượng trao đổi khi gặp khó khăn, Mong muốn liên quan đến cửa sổ tư vấn, v.v., Mong muốn liên quan đến người phụ trách tư vấn, Tình
trạng giải quyết khó khăn của người nước ngoài khi trao đổi với gia đình, người thân, bạn bè,người quen/cơ quan trực thuộc, Bạn có mong
muốn có người xử lý trao đổi ở cơ quan trực thuộc, v.v.
しかく Hơn nữa, các câu hỏi được đặt giống với câu hỏi trong "Khảo sát cơ bản về Đời sống Cộng đồng năm 2022 (Ban Thư ký Nội các)" (đối tượng
khảo sát: 20,000 cá nhân từ tròn 16 tuổi trở lên trên toàn quốc) được hỏi để nắm bắt mức độ lẻ loi hiện tại của người lưu trú nước ngoài.1Tổng quan khảo sát
Người lưu trú nước ngoài
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Tổng quan khảo sát
Đối tượng khảosátしかく Cơ quan trực thuộc, v.v. đang tiếp nhận người nước ngoài Tổng cộng 1,000 cơ quan
* Ngoài các cơ quan đang tuyển dụng trực tiếp người nước ngoài, còn bao gồm các các cơ quan giáo dục đang tiếp nhận du học sinh hay
nghiệp đoàn, cơ quan hỗ trợ đăng ký, v.v.
* Ngoài pháp nhân, còn bao gồm cả chủ hộ kinh doanh cá thể, v.v.
* Dựa trên số mẫu chia theo quốc tịch/khu vực và tư cách lưu trú, được xác định bằng cách tham khảo số liệu thống kê về người lưu trú nước
ngoài (tính đến cuối tháng 12 năm 2022) để chọn ngẫu nhiên người lưu trú nước ngoài có thông tin của cơ quan trực thuộc, v.v. đang trực
thuộc, v.v. tại cơ quan chúng tôi và lấy đối tượng khảo sát là các cơ quan, v.v. đang có những người lưu trú nước ngoài đó đang trực thuộc,v.v.Số lượng trả lời
hợp lệ
 Số bản khảo sát được gửi đi: 1,000 bản (22 trong số đó là không gửi được)
 Số trả lời hợp lệ: 555 bản/tỷ lệ trả lời 56.7%
Phương thức
khảo sát
 Khảo sát được thực hiện trên web (hình thức là một lá thư yêu cầu hợp tác và bao gồm mã vạch hai chiều được gửi đến người thuộc đối
tượng khảo sát, và người đó sẽ đọc mã vạch này để trả lời bảng câu hỏi trực tuyến).
Mục khảo sát
しかく Khảo sát các vấn đề, v.v. liên quan đến đến các mục sau đây, chẳng hạn như vấn đề phát sinh khi hỗ trợ tư vấn cho người nước ngoài trực
thuộc.
Tần suất trao đổi của người nước ngoài trực thuộc, nội dung trao đổi của người nước ngoài trực thuộc, tình hình hỗ trợ tư vấn cho người
nước ngoài trực thuộc, nội dung các khó khăn trong hỗ trợ tư vấn cho người nước ngoài trực thuộc, cơ cấu đề bạt nguyện vọng liên quan đến
hỗ trợ tư vấn người nước ngoài trực thuộc, điều cảm thấy cần thiết khi hỗ trợ tư vấn người nước ngoài trực thuộc, mong muốn tham gia đào
tạo về tư vấn/hỗ trợ người nước ngoài, điều xem trọng khi đào tạo tư vấn/hỗ trợ người nước ngoài, bố trí nhân lực hỗ trợ người nước ngoài
trực thuộc, về việc đào tạo nhân lực hỗ trợ, điều kỳ vọng khi tuyển dụng nhân lực hỗ trợ, về việc học lại của nhân lực hỗ trợ, về việc tuyển
dụng và cấp bằng cho "điều phối viên hỗ trợ người nước ngoài", ý kiến và nguyện vọng2Thời gian khảo sát và những điểm cần lưu ý
Cơ quan trực thuộc, v.v.
Thời gian khảosátしかく Ngày 2 tháng 10 năm 2023 ~ ngày 20 tháng 10 năm 2023
Những điểm
cần lưu ý
 Đối với kết quả của cuộc khảo sát này, vì chúng tôi đã tổng hợp và đăng tải nguyên vẹn các câu trả lời thu được đối với bảng câu hỏi, và ở
một số kết quả thu được, số câu trả lời bị hạn chế, nên cần lưu ý khi giải thích chúng.
 Số liệu được làm tròn để hiển thị và cũng có trường hợp cộng phần trăm của tất cả các mục không đạt 100.0%, hay trường hợp tổng của các
con số trên đồ thị không khớp với câu mở đầu.
 Trong một số câu hỏi, chúng tôi có thiết lập sao cho các mục khảo sát lấy đối tượng khảo sát là người lưu trú nước ngoài và các mục khảo sát
lấy đối tượng khảo sát là cơ quan trực thuộc, v.v. tương tự với nhau, và chúng tôi có đăng một số mục khảo sát như thế trên đồ thị so sánh cả
hai trong phần "Khảo sát lấy đối tượng là cơ quan trực thuộc, v.v." trong tài liệu tổng quan kết quả này.
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Tổng quan khảo sát
Khảo sát lấy đối tượng là người lưu trú
nước ngoài
3 năm trở lên – dưới
10 năm 37.9% (2,331
người)
10 năm trở lên – dưới 20
năm 19.1% (1,177 người)
1 năm trở lên – dưới 3
năm 17.8% (1,097
người)
20 năm trở lên – dưới
30 năm 13.5% (829
người)
30 năm trở lên – dưới
40 năm 5.5% (340
người)
Suốt từ khi sinh ra
4.5% (274 người)
40 năm trở lên 1.3%
(81 người)
1 năm trở xuống
0.4% (25 người)
Người vĩnh trú
28.6%
(1,757 người)
Kỹ sư-Trí thức-
Nghiệp vụ quốc tế
13.4%
(824 người)
Thực tập kỹ
năng 10.5%
(645 người)
Du học sinh9.8%(605 người)
Đoàn tụ gia đình8.2%(505 người)
Vợ/chồng, v.v. của
người Nhật 6.6%
(405 người)
Người định trú6.5%(402 người)
Kỹ năng đặc định4.8%(296 người)
Người vĩnh trú đặc
biệt 4.7%
(292 người)
Hoạt động đặc định 1.6%
(96 người)
Khác 5.3%
(327 người)
Trung Quốc
26.8%
(1,651 người)
Việt Nam
16.9%
(1,038 người)
Philippines
10.8%
(667 người)
Hàn Quốc 8.9%
(547 người)
Brazil 7.3%
(451 người)
Indonesia 3.6%
(221 người)
Nepal 3.2%
(195 người)
Đài Loan 3.0%
(182 người)
Mỹ 2.0%
(121 người)
Thái Lan1.8%(110 người)
Khác 15.7%
(965 người)
Không biết0.1%(6 người)
 Quốc gia/khu vực của người trả lời theo thứ tự giảm dần lần lượt là "Trung Quốc" (26.8%), "Việt Nam" (16.9%) và "Philippines" (10.8%).
 Tư cách lưu trú của người trả lời theo thứ tự giảm dần lần lượt là "Người vĩnh trú" (28.6%), "Kỹ sư-Trí thức-Nghiệp vụ Quốc tế" (13.4%) và "Thực tập kỹ năng"
(10.5%).
 Tuổi của người trả lời theo thứ tự giảm dần lần lượt là "20–29 tuổi" (30.8%), "30–39 tuổi" (29.2%), "40–49 tuổi" (19.2%).
 Tổng số năm lưu trú tại Nhật theo thứ tự giảm dần lần lượt là "3 năm trở lên – dưới 10 năm" (37.9%), "10 năm trở lên – dưới 20 năm" (19.1%), "Từ 1 năm trở lên
– dưới 3 năm" (17.8%).
(n=6,154)
(n=6,154)
Người vĩnhtrú28.1%
Thực tập
kỹ năng
10.6%
Kỹ sư-Trí thức-
Nghiệp vụ quốctế10.1%
Du học sinh9.8%Người vĩnh trú
đặc biệt9.4%Đoàn tụ gia
đình7.4%Người địnhtrú6.7%
Vợ/chồng, v.v.
của người Nhật4.7%Kỹ năng
đặc định4.3%Hoạt động đặc
định2.7%Khác6.2%Tham khảo: Thống kê về người lưu trú nước
ngoài (Tính đến cuối tháng 12 năm 2022)
Trung
Quốc
24.8%
Việt Nam
15.9%
Hàn Quốc
13.4%
Philippines9.7%
Brazil6.8%Nepal4.5%Indonesia3.2%Mỹ2.0%Đài Loan1.9%Thái Lan1.8%Khác
16.0%
Tham khảo: Thống kê về người lưu trú nước
ngoài (Tính đến cuối tháng 12 năm 2022)
20–29 tuổi 30.8%
(1,898 người)
30–39 tuổi 29.2%
(1,798 người)
40–49 tuổi
19.2%
(1,184 người)
50–59 tuổi 12.2%
(752 người)
60–69 tuổi5.4%(334 người)
70–79 tuổi1.4%(87 người)
18–19 tuổi1.2%(73 người)
Từ 80 tuổi
trở lên0.5%(28 người)
(n=6,154)
(n=6,154)
Tư cách lưu trú
Quốc tịch/khu vực Tuổi tác
Tổng số năm lưu trú tại Nhật Bản Giới tính
Nữ 52.1%
(3,205
người)
Nam 47.6%
(2,927
người)
Khác 0.4%
(22 người)
(n=6,154)
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Kết quả chính/Người nước ngoài (1) (Các đặc điểm của người trả lời)3 しかく Đối tượng trao đổi khi gặp khó khăn theo thứ tự giảm dần lần lượt là "Gia đình, người thân" (92.0%), "Bạn bè và người quen là người Nhật" (65.6%), "Bạn bè và người
quen không phải người Nhật" (60.4%).
しかく Mong muốn liên quan đến cửa sổ tư vấn, v.v. có nhiều câu trả lời về mục liên quan đến tính tiện dụng như "Có thể trao đổi bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của bạn" (39.8%), "Gần
nhà" (39.1%), "Dễ đặt lịch hẹn" (36.3%).
しかく Ở phần Mong muốn liên quan đến người phụ trách tư vấn, có nhiều người kỳ vọng việc có kiến thức liên quan đến chế độ với hơn một nửa số người (61.0%) chọn "Kiến
thức về các hệ thống xã hội khác nhau như thuế và lương hưu", tiếp theo là "Kiến thức về hệ thộng tư cách lưu trú" (49.3%), "Kiến thức về chăm sóc y tế và phúc lợi"
(40.6%).
* Tổng số câu trả lời
về người trao đổi
đầu tiên, người trao
đổi thứ 2, người
trao đổi thứ 3 khi
gặp khó khăn
Mong muốn liên quan đến người phụ trách tư vấn
Mong muốn liên quan đến cửa sổ tư vấn, v.v.
61.0%
49.3%
40.6%
36.8%
35.5%
26.2%
24.5%
22.5%
21.2%
16.1%
13.5%1.5%6.9%
Kiến thức về các hệ thống xã hội
khác nhau như thuế và lương hưu
Kiến thức về hệ thống tư cách lưutrúKiến thức về chăm sóc y tế và
phúc lợi
Năng lực giao tiếp
Năng lực trao đổi bằng ngôn ngữ
mẹ đẻ của bạn
Kiến thức về khác biệt văn hóa và
giá trị quan
Năng lực liên kết với bên cung cấp
dịch vụ
Kiến thức về chăm sóc tinh thần
Kiến thức về giáo dục trẻ
Kiến thức về nuôi dạy trẻ
Kiến thức về mang thai và sinhconKhác
Không biết
74.7%
12.2%5.1%10.6%
34.1%
20.9%8.4%33.6%
18.4%2.9%8.4%
17.9%4.7%14.2%1.5%7.7%1.6%5.7%3.7%1.8%2.6%5.6%
Thứ 1
Thứ 2
Thứ 3
Gia dình, người thân
Bạn bè và người quen người Nhật
Bạn bè và người quen không phải người Nhật
Tổ chức tiếp nhận, trường học, công ty, v.v.
Khu phố quận huyện thành phố
Đại sứ quán nước xuất thân v.v.
Luật sư hoặc luật sư hành chính
Quốc gia (Trung tâm hỗ trợ thường trú dành cho người nước ngoài (FRESC) v.v.)
Đoàn thể tư nhân như là NPO v.v.
Khác
* Không hiển thị phần trăm đối với hạng mục từ 1.0% trở xuống (n=6,154)
Đối tượng trao đổi khi gặp khó khăn (thứ tự)
(n=6,154)
Đối tượng trao đổi khi gặp khó khăn (Tổng cộng)
92.0%
65.6%
60.4%
29.1%
19.5%9.7%7.6%4.9%1.3%7.3%Gia dình, người thân
Bạn bè và người quen người Nhật
Bạn bè và người quen không phải người Nhật
Tổ chức tiếp nhận, trường học, công ty, v.v.
Khu phố quận huyện thành phố
Đại sứ quán nước xuất thân v.v.
Luật sư hoặc Luật sư hành chính
Quốc gia (Trung tâm hỗ trợ thường trú dành cho người
nước ngoài (FRESC) v.v.)
Đoàn thể tư nhân như là NPO, v.v.
Khác
(n=6,154)
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Kết quả chính/Người nước ngoài (2) (Đối tượng trao đổi, v.v.)
39.8%
39.1%
36.3%
33.0%
28.9%
24.7%
23.3%
23.0%
22.3%
21.0%
16.2%
12.1%
11.0%1.6%8.3%
Có thể trao đổi bằng ngôn ngữ mẹ
đẻ của bạn
Gần nhà
Dễ đặt lịch hẹn
Có người giúp xử lý các khó khăn
khác nhau
Có kiến thức chuyên môn về y tế,
pháp luật, v.v.
Có thể trao đổi cả vào buổi tối và
ngày lễ
Có đủ thời gian trao đổi
Có thể trao đổi trực tuyến (bao gồm
cả SNS)
Có thể trao đổi qua điện thoại
Có thể bảo đảm quyền riêng tư của
những người xung quanh bạn chẳng
hạn như vợ/chồng và gia đình
Có thể đi cùng đến các cơ quan có
liên quan
Chăm sóc tinh thần
Biết nhân viên hỗ trợ nào có sẵn
Khác
Không biết (n=6,154)4 15.3%
13.5%
11.3%7.7%7.4%6.8%5.2%4.0%3.3%3.1%Vì khó truyền tải chính xác điều muốn
nói do vấn đề ngôn ngữ
Có những người bên ngoài cơ quan
trực thuộc có thể trao đổi như gia đình,
bạn bè, chính quyền địa phương
Không biết có thể trao đổi với ai tại cơ
quan trực thuộc
Vì sự khác biệt về văn hóa và giá trị
quan nên khó truyền đạt suy nghĩ về
những khó khăn đang có
Không hi vọng cơ quan trực thuộc có
thể trao đổi giải quyết hoặc cho biết
nơi có thể trao đổi bên ngoài
Không có bộ phận hoặc cửa sổ liên hệ
nào để trao đổi về khó khăn của mình
Có thể gặp bất lợi nếu trao đổi với cơ
quan trực thuộc (Sự riêng tư của bạn
bị người khác hoặc tổ chức biết)
Có những người bên trong cơ quan
trực thuộc có thể trao đổi riêng như
đồng nghiệp, bạn cùng lớp
Có vẻ sẽ không nhận được thông tin
đáng tin cậy từ cơ quan trực thuộc
Dù có trao đổi thì cơ quan trực thuộc
cũng không tiếp nhận trao đổi
(n=1,487)
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Kết quả chính/Người nước ngoài (3) (Tình trạng giải quyết khó khăn, v.v.)
しかく Ở phần Tình trạng giải quyết khó khăn khi trao đổi với gia đình, v.v. (gia đình, người thân, bạn bè, người quen) thì giải quyết được ("Luôn giải quyết được" + "Thường
xuyên giải quyết được") chiếm 80.2%.
しかく Ở phần Tình trạng giải quyết khó khăn khi trao đổi với cơ quan trực thuộc, v.v. thì giải quyết được ("Luôn giải quyết được" + "Thường xuyên giải quyết được") chiếm
73.9%.
しかく Ở phần Lý do không trao đổi với cơ quan trực thuộc, v.v. thì nhiều nhất là "Vì khó truyền tải chính xác điều muốn nói do vấn đề ngôn ngữ" chiếm 15.3%, tiếp theo là "Có
những người bên ngoài cơ quan trực thuộc có thể trao đổi như gia đình, bạn bè, chính quyền địa phương" (13.5%), và "Không biết có thể trao đổi với ai tại cơ quan trực
thuộc" (11.3%).
しかく Tổng số năm lưu trú tại Nhật Bản càng tăng thì Tỷ lệ chưa từng trao đổi với cơ quan trực thuộc, v.v. càng tăng. Khoảng 80% người nước ngoài có tổng số năm lưu trú tại
Nhật Bản dưới 10 năm đã từng có kinh nghiệm trao đổi với cơ quan trực thuộc.5Tình trạng giải quyết khó khăn khi
trao đổi với gia đình, v.v.
Luôn giải
quyết
được
31.1%
Thường xuyên
giải quyết
được 49.2%
Thỉnh
thoảng
giải quyết
được
16.6%
Hầu như không giải quyết được 3.1%
Luôn giải
quyết
được
25.0%
Thường xuyên
giải quyết
được 48.9%
Thỉnh
thoảng
giải
quyết
được
20.3%
Hầu như không giải quyết được 5.8%
Lý do không trao đổi với cơ quan trực thuộc,v.v.* Tỷ lệ những ngưởi trả lời "Vì không có khó khăn nào cả" chiếm
64.4%
* Chưa từng trao
đổi với cơ quan
trực thuộc, v.v.
⇒1,487 câu trả lời
Tình trạng giải quyết khó khăn khi
trao đổi với cơ quan trực thuộc, v.v.
Tỷ lệ chưa từng trao đổi với cơ quan
trực thuộc, v.v. tính theo số năm lưu trú
Tổng số năm lưu trú tại
Nhật Bản
Tỷ lệ
Thứ 1 Suốt từ khi sinh ra 51.7%
Thứ 2 30 năm trở lên 36.2%
Thứ 3 20 năm trở lên ~ dưới 30 năm 32.7%
Thứ 4 10 năm trở lên ~ dưới 20 năm 29.4%
Thứ 5 3 năm trở lên ~ dưới 10 năm 22.1%
Thứ 6 Dưới 3 năm 20.3%
Giảm
Nhiều người nước ngoài vừa đến Nhật
một thời gian ngắn đã trao đổi với cơ
quan trực thuộc, v.v.
Tỷ lệ đã trả lời khó khăn khi trao đổi với gia đình
thì "Luôn giải quyết được" (chia theo có
vợ/chồng hay không)
Vợ/chồng
Tỷ lệ đã trả lời
"Luôn giải quyết
được"
Có (người cùng quốc tịch) 30.9%
Có (người Nhật) 38.0%
Có (những người có quốc
tịch khác)
26.9%
Chưa có 26.3%
Không có (chia tay, chết) 34.7%
(n=6,063) (n=4,087)
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Kết quả chính/Người nước ngoài (4) (Nội dung trao đổi/Khó khăn)
しかく Tại nội dung trao đổi khó khăn, ở cả trường hợp trao đổi với gia đình, v.v. (gia đình, người thân, bạn bè, người quen) lẫn trường hợp trao đổi với cơ quan trực thuộc, v.v.,
"Làm việc" chiếm hơn một nửa, tỷ lệ của "Thuế" cũng cao. Trường hợp trao đổi với gia đình, v.v. thì "Quan hệ con người", "Quan hệ tài chính" có tỷ lệ cao, ngược lại
trường hợp trao đổi với cơ quan trực thuộc, v.v. thì "Tư cách lưu trú" đặc biệt cao.
しかく Những khó khăn khi trao đổi với gia đình, v.v. (gia đình, người thân, bạn bè, người quen) theo thứ tự giảm dần lần lượt là "Vì sự khác biệt về văn hóa và giá trị quan nên
khó truyền đạt suy nghĩ về những khó khăn đang có" (23.7%), "Vì khó truyền tải chính xác điều muốn nói do vấn đề ngôn ngữ" (21.9%), còn Những khó khăn khi trao đổi
với cơ quan trực thuộc, v.v. theo thứ tự giảm dần lần lượt là "Vì khó truyền tải chính xác điều muốn nói do vấn đề ngôn ngữ" (36.1%), "Vì sự khác biệt về văn hóa và giá
trị quan nên khó truyền đạt suy nghĩ về những khó khăn đang có" (24.7%).
23.7%
21.9%
20.0%8.1%6.4%
49.4%
Vì sự khác biệt về văn hóa và giá trị quan nên khó truyền đạt suy nghĩ về
những khó khăn đang có
Vì khó truyền tải chính xác điều muốn nói do vấn đề ngôn ngữ
Vì lý do là tính chuyên môn của nội dung trao đổi cao nên không rõ cơ quan
trực thuộc có phương pháp giải quyết hay không hoặc có thể trao đổi với cơ
quan bên ngoài nào
Không nhận được thông tin đáng tin cậy từ cơ quan trực thuộc
Có thể gặp bất lợi nếu trao đổi với cơ quan trực thuộc (Sự riêng tư của bạn bị
người khác hoặc tổ chức biết)
Vì không có khó khăn nào cả
(n=6,063)6Nội dung trao đổi
58.6%
36.6%
32.6%
30.9%
29.5%
27.3%
26.9%
26.4%
25.1%
24.8%
22.9%
22.6%
20.3%
19.4%
15.8%
15.0%8.6%7.9%6.4%5.3%3.0%2.0%1.5%1.9%
60.7%
19.5%
35.7%
23.0%
17.9%
27.1%
34.6%
28.3%
17.3%
26.1%
13.8%
11.4%6.9%6.4%
10.6%7.9%4.9%4.3%2.9%3.5%1.9%1.4%1.1%2.3%Làm việc (điều kiện làm việc, xin việc, đổi
nghề, v.v.)
Quan hệ con người
Thuế
Y tế
Quan hệ tài chính
Học tiếng Nhật
Tình trạng lưu trú
Bảo hiểm
Nhà ở
Lương hưu
Sức khỏe tinh thần
Giáo dục trẻ em
Bà con họ hàng ở quê hương
Vấn đề về gia đình
Phân biệt chủng tộc, cơ hội bình đẳng, tôn
trọng cá nhân
Nuôi dạy trẻ
Thiên tai
Mang thai, sinh con
Kết hôn, ly hôn
Chăm sóc
Tử vong (đảm bảo khu mộ, v.v.)
Tham gia chính trị
Bạo lực gia đình
Khác
Gia đình, v.v. (n=6,063)
Cơ quan trực thuộc, v.v.
(n=4,087)
Những khó khăn khi trao đổi với gia đình, v.v.
Những khó khăn khi trao đổi với cơ quan trực thuộc, v.v.
36.1%
24.7%
16.5%7.7%6.4%6.1%41.0%
Vì khó truyền tải chính xác điều muốn nói do vấn đề ngôn ngữ
Vì sự khác biệt về văn hóa và giá trị quan nên khó truyền đạt suy nghĩ về
những khó khăn đang có
Vì lý do là tính chuyên môn của nội dung trao đổi cao nên không rõ cơ quan
trực thuộc cóphương pháp giải quyết hay không hoặc có thể trao đổi với cơ
quan bên ngoài nào
Không nhận được thông tin đáng tin cậy từ cơ quan trực thuộc
Có thể gặp bất lợi nếu trao đổi với cơ quan trực thuộc (Sự riêng tư của bạn bị
người khác hoặc tổ chức biết)
Dù có trao đổi thì cơ quan trực thuộc cũng không tiếp nhận trao đổi
Vì không có khó khăn nào cả
(n=4,087)
56.7%
53.1%
43.7%
39.0%
35.7%
34.6%
32.3%
31.0%
28.4%
25.9%
25.8%
25.8%
24.8%
24.3%
19.6%
12.2%8.4%8.1%8.9%55.7%
56.2%
51.8%
41.6%
36.9%
38.0%
34.1%
33.7%
33.5%
33.3%
27.6%
29.8%
28.5%
26.9%
28.4%
17.9%
16.0%
14.7%9.8%Ngôn ngữ
Công việc
Phân biệt chủng tộc, cơ hội
bình đẳng, tôn trọng cá nhân
Tư cách lưu trú
Thuể
Cung cấp thông tin
Y tế
Nhà ở
Lương hưu
Giáo dục
Bảo hiểm
Tài khoản ngân hàng, thẻ tín
dụng, cho vay
Giao lưu
Tư vấn
Nuôi con
Thảm họa
Tham gia chính trị
Qua đời (bảo đảm nơi chôn
cất,v.v.)
Khác
Khảo sát năm tài chính
2023 (n=6,154)
Khảo sát năm tài chính
2022 (n=4,977)
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Kết quả chính/Người nước ngoài (5) (Lẻ loi, Ý kiến, nguyện vọng, v.v.)
しかく Ở phần "Bạn có cho rằng nên có người có năng lực chuyên môn trong công ty để trao đổi về khó khăn của bạn?", tỷ lệ trả lời "Tôi nghĩ như vậy"/"Tôi nói chung là nghĩ như
vậy" chiếm 76.0%, tỷ lệ trả lời "Tôi không nghĩ như vậy"/ "Tôi nói chung là không nghĩ như vậy" chiếm 10.4%.
しかく Số người trả lời "Thường xuyên có" cảm thấy lẻ loi chiếm 7.9%, tăng 0.4 điểm so với khảo sát năm tài chính 2022. Tỷ lệ số người trả lời "Thường xuyên có", "Thỉnh thoảng
có" nếu so sánh với "Khảo sát cơ bản về Đời sống Cộng đồng năm 2022" (Ban Thư ký Nội các) (đối tượng khảo sát: 20,000 cá nhân từ tròn 16 tuổi trở lên trên toàn quốc)
thì thấy đều cao hơn ở cả hai mục.
しかく Ở phần Ý kiến, nguyện vọng, v.v., tại nhiều mục lựa chọn có tỷ lệ giảm so với năm tài chính 2022, nhiều nhất là "Ngôn ngữ" có tỷ lệ số người chọn (56.7%) tăng (tăng 1.0
điểm).7Ý kiến, nguyện vọng, v.v.
Tham khảo: Kết quả khảo sát của "Khảo sát cơ bản về Đời sống Cộng đồng năm 2022" (Ban Thư ký Nội các)
Tình trạng lẻ loi (Bạn cảm thấy mình lẻ loi ở mức độ như thế nào?)
Bạn có cho rằng nên có người có năng lực chuyên môn trong
công ty để trao đổi về khó khăn của bạn?
50.9% 25.1%4.1%6.3%
13.5%
Tôi nghĩ như vậy Tôi nói chung là nghĩ như vậy
Tôi nói chung là không nghĩ như vậy Tôi không nghĩ vậy
Tôi không biết
(n=5,574)7.9%7.5%6.7%22.7%
17.6%
14.9%
25.8%
24.3%
29.5%
21.2%
23.9%
22.7%
22.4%
26.8%
26.1%
Khảo sát năm tài chính 2023 (n=6,154)
Khảo sát năm tài chính 2022
(n=5,016)
Khảo sát năm tài chính 2021
(n=7,982)
Thường xuyên có Thỉnh thoảng có Hiếm khi có Hầu như không Hoàn toàn không
"Tôi nghĩ như vậy" + "Tôi nói chung là nghĩ như vậy" chiếm 76.0%
Thường xuyên có Thỉnh
thoảng có
Hiếm khi có Hầu như
không
Hoàn toàn
không
Năm tài
chính 2022
Năm tài
chính 2021
Không trả
lời
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Ý kiến, nguyện vọng, v.v/Người nước ngoài (1) Ngôn ngữ/Phân biệt chủng tộc, v.v.
Về ngôn ngữ (3,492 câu trả lời)
しろまる Về hỗ trợ học tiếng Nhật
・ Về việc học ngôn ngữ, tôi hy vọng sẽ có phương thức học miễn phí mang tính hệ thống và tiện lợi. Thí dụ như có thể học trực tuyến vào ban đêm hay học vào ngày nghỉ. (Nữ ở độ tuổi 40–49)・ Lớp học tiếng Nhật được thành lập và tôi đang được cung cấp cơ hội học tập, thế nhưng thời gian học 1 tuần chỉ được 1 tiếng rưỡi, vì vậy tôi mong muốn được cung cấp môi trường học
tiếng Nhật hàng ngày giống như đi học tại trường tiểu học hay trung học cơ sở. Và tôi nghĩ rằng nếu có môi trường học tiếng Nhật đầy đủ cho cả người bảo hộ thì sẽ rất tốt. (Nữ ở độ tuổi
30–39)
・ Ngôn ngữ nếu ở đâu cũng dễ hiểu và giao tiếp ngôn ngữ bản địa như tiếng mẹ đẻ thì sẽ dễ giải quyết vấn đề hơn. Vì vậy ở các các gần khu vực có người nước ngoài sinh sống nên tổ
chức dạy tiếng bản địa và luật pháp, văn hóa để người nước ngoài có thế dễ dàng tiếp nhận và học tập làm việc tốt hơn. (Nữ ở độ tuổi 20–29)
しろまる Về hỗ trợ đa ngôn ngữ
・ Việc tra cứu để có được thông tin trước tiên gặp trở ngại về ngôn ngữ. Dù đã sống ở Nhật gần 20 năm nhưng chữ Hán đối với tôi vẫn khó và tôi phải nhờ chồng đọc hay viết giúp. Tuy tôi
có bằng tiếng Nhật N1 nhưng chữ Hán của tôi còn kém. Tôi muốn người nước ngoài cũng có thể làm các thủ tục giấy tờ dễ dàng. (Nữ ở độ tuổi 40–49)
・ Tôi nghĩ rằng nên có bố trí thông dịch, v.v. tại các cơ quan có sử dụng thuật ngữ chuyên ngành như bệnh viện, cục thuế, cơ quan lương hưu, văn phòng bảo hiểm xã hội, v.v. Tôi nghĩ
ngoài việc giải quyết được các thắc mắc, còn có thể ngăn chặn trước được các rắc rối xảy ra. (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Tôi nghĩ ít nhất cũng nên bố trí thông dịch tiếng Anh ở các cơ quan hành chính thành phố. Đối với những người gặp khó khăn đối với tiếng Nhật như chúng tôi, thì tiếng Anh hết sức quan
trọng. Tôi mong muốn sẽ có thông dịch viên được bố trí tại các cơ sở dịch vụ công cộng chẳng hạn như cơ quan hành chính thành phố, cục quản lý xuất nhập cảnh và lưu trú hay văn
phòng lương hưu, v.v. (Nữ ở độ tuổi 40–49)
しろまる Về tiếng Nhật đơn giản
・Tôi nghĩ việc sử dụng tiếng Nhật đơn giản và giáo dục cộng sinh đa văn hóa là cần thiết. (Nam ở độ tuổi 20–29) v.v.
Về phân biệt chủng tộc, cơ hội bình đẳng, tôn trọng cá nhân (2,687 câu trả lời)
・ Tôi nghĩ khó giải quyết, nhưng có vẻ như có nhiều lời phỉ báng chẳng hạn như trên internet, v.v. Tôi nghĩ những lời phỉ bàng này không chỉ đối với người nước ngoài mà còn bao gồm cả
phân biệt đối xử đối với những người yếu thế là người Nhật thông thường. Tôi nghĩ rằng nên có những biện pháp nào đó để giải quyết đối với những lời phỉ báng. (Nam ở độ tuổi 70–79)
・ Chẳng hạn như khi đi đến cửa hàng tiện ích, v.v. và trả lời với nội dung nói chuyện thông thường trong gia đình thì cũng có khi bị đối xử lạnh nhạt không biết có phải là do vẻ bề ngoài hay
do sử dụng tiếng bồi hay không. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là mọi người đang phân biệt đối xử. Cũng có nhiều người hỗ trợ tôi rất tử tế. (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Bản thân tôi thì chưa từng bị phân biệt chủng tộc một cách đặc biệt tại Nhật, nhưng tôi biết có người đã từng trải nghiệm bị phân biệt chủng tộc. Một số người Nhật cho dù không có ý định
viết những lời bình luận mang tính phân biệt chủng tộc, nhưng không hẳn là họ có kiến thức phong phú về nước ngoài và người nước ngoài, nên cũng có khả năng họ vô tình có những lời
nói hay hành động làm cho người nước ngoài cảm nhận mình là người ngoài cuộc. Cũng có trường hợp người nước ngoài bị từ chối cho vay hay đăng ký thẻ tín dụng với lý do họ là người
nước ngoài (Bản thân tôi thì chưa từng nghĩ những thứ này là cần thiết, nhưng tôi đã từng nghe việc này từ người quen). Người nước ngoài nếu có ý định sinh sống tại Nhật thì cần phải
được đối xử một cách bình đẳng khi sử dụng các dịch vụ này. (Nữ ở độ tuổi 20–29)
・ Vì người nước ngoài không hiểu rõ những quy tắc mà người Nhật ngầm công nhận, nên khi phá vỡ những quy tắc ngầm công nhận kiểu này do làm một điều gì đó thì sẽ xảy ra phân biệt
đối xử không cần thiết và điều này gây ra nhiều bất tiện cho người nước ngoài sống tại Nhật. Tôi mong rằng sẽ có nhiều thẻ nhắc nhở trong đó giải thích một cách thân thiện và dễ hiểu
các quy tắc này bằng nhiều thứ tiếng. (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Chúng tôi rất khổ sở do sự khác biết về văn hóa và sự khác biệt về nhân sinh quan. Chúng tôi tôn trọng Nhật Bản và cũng hiểu rằng mình phải nỗ lực hết mình để có thể thích ứng. Thế
nhưng, tôi cũng thật lòng mong muốn rằng về phía người Nhật cũng phải nỗ lực tìm hiểu văn hóa của chúng tôi để thấu hiểu chúng tôi. Toàn thể chúng tôi không phải là những người xấu
xa đến thế. Cũng có những người làm điều sai trái. Bản thân tôi cũng nghĩ điều đó là sai. Thế nhưng, tôi mong muốn người Nhật nhìn chúng tôi với thái độ thiện chí. Và tôi muốn được tạo
cơ hội để thể hiện rằng chúng tôi đến để làm việc chăm chỉ và hết mình, chúng tôi cũng biết giữ đúng lễ nghĩa, chúng tôi rất giàu tình cảm, thích tiếp nhận người khác và không hề có ác ý
với một ai, ngược lại chúng tôi là những người đầy sức quyền rũ. (Nữ ở độ tuổi 50–59)v.v.8
しかく Ở phần khảo sát này, đối với nội dung "Các hình thức hỗ trợ, biện pháp ​​và chế độ nào là cần thiết để người nước ngoài có cuộc sống tốt hơn ở Nhật Bản", câu hỏi được
xây dựng theo cách trả lời viết tự do sau khi lựa chọn trong các hạng mục như "Ngôn ngữ", "Công việc" và "Cung cấp thông tin", v.v. (cho phép chọn nhiều mục). Ý kiến ​​và
nguyện vọng theo từng lĩnh vực như đề cập bên dưới. (Số câu trả lời bên cạnh mỗi lĩnh vực bên dưới là số câu đã chọn hạng mục tương ứng. Nội dung viết tự do được
trích từ 4,679 mục, không bao gồm "Không có gì đặc biệt", "Vui lòng giúp tôi", v.v. Ngoài việc chỉnh sửa một số lỗi chính tả dễ thấy hay các thông tin, v.v. có thể xác định
được cá nhân, cũng có trường hợp chỉ trích một phần. Ngoài ra, việc dịch thuật sang tiếng Nhật đã được tiến hành trong trường hợp câu trả lời được viết bằng ngôn ngữ
khác tiếng Nhật.)
Về cung cấp thông tin (2,127 câu trả lời)
しろまる Về nội dung thông tin
・ Cá nhân tôi nghĩ rằng ngoài các cơ quan tư vấn, nếu từ ban đầu tôi được phát cho các hướng dẫn, đặc biệt là về tuyển dụng, luật pháp Nhật Bản, nghĩa vụ và quy tắc về mặt tiền bạc thì
sẽ rất hữu ích. (Nam ở độ tuổi 30–39)
・ Xin cảm ơn vì đã cho tôi trả lời phiếu khảo sát. Vì từ giờ trở đi tôi cần phải suy nghĩ về việc nuôi con, nên nếu có những hỗ trợ về việc nuôi dạy con thì sẽ giúp ích được nhiều cho tôi!
Ngoài ra, nếu có thể lập được danh sách đơn giản hơn so với hệ thống khá khó hiểu về tiền thuế, lương hưu, v.v., và chỉ cần xem qua thì có thể kiểm tra được điều gì cần làm, điều gì có
thể làm trong tình hình hiện tại thì sẽ giúp ích được rất nhiều cho tôi! (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Tôi mong muốn được truyền tải thông tin dành cho người có độ tuổi từ 65 tuổi trở lên vẫn còn mong muốn tham gia hoạt động chẳng hạn như các hoạt động liên quan đến công việc hay
sự kiện, v.v. tại Nhật. (Nữ ở độ tuổi 70–79)
・ Tôi hy vọng trong tương lai gần, khi ai đó là người ngoại quốc đến Nhật Bản, họ sẽ được tham gia một lớp huấn luyện ngắn hạn về đề tài "Văn hoá và lối sống của người Nhật" tại chính
địa phương đó. Vì người Nhật có những cách nói chuyện rất tế nhị và không trực tiếp nói ra điều họ mong muốn. Vì thế người nước ngoài không thể hiểu trọn vẹn ý mà người Nhật muốn
nói và đôi khi còn hiểu sai ý của họ, nhất là đối với những người không giỏi tiếng Nhật. (Nam ở độ tuổi 20–29)
しろまる Về phương pháp truyền tải thông tin
・ Nhiều trang Web của chính phủ có đăng tải những thông tin tuyệt vời, nhưng thiết kế xấu và "các thuật ngữ pháp luật" đang được dùng nhiều, nên cũng có trường hợp khó tìm kiếm. (Nam
ở độ tuổi 30–39)
・ Có rất nhiều nguồn cung cấp thông tin (cửa sổ hay trang Web), và bản thân những nguồn này không có vấn đề gì, tuy nhiên tôi nghĩ nếu có hướng dẫn được tổng hợp đầy đủ (chẳng hạn
như thủ tục nào thì làm ở cục quản lý xuất nhập cảnh và lưu trú, thủ tục nào thì làm ở cơ quan hành chính quận, v.v.) thì tốt hơn. (Nữ ở độ tuổi 20–29)
・ Tôi mong muốn chính quyền cố gắng thông báo rộng rãi cho càng nhiều người nước ngoài càng tốt về việc cửa sổ tư vấn hỗ trợ cho người nước ngoài đang được thiết lập tại các địa
phương! (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Cần có các buổi giao lưu trao đổi thông tin giữa cơ quan hành chính thành phố và người nước ngoài. (Nam ở độ tuổi 30–39)v.v.Về công việc (3,270 câu trả lời)
しろまる Về những khó khăn khi tìm việc
・ Tôi mong muốn được hỗ trợ tìm việc một cách chắc chắn hơn làm cơ sở để lấy tư cách lưu trú. (Nữ ở độ tuổi 20–29)
・ Tại Nhật có nhiều quy tắc bị che giấu, đặc biệt rất khó trong vấn đề tìm việc. Tôi mong muốn nhận được sự hỗ trợ ở một mức độ nào đó về vấn đề này. (Nữ ở độ tuổi 20–29)
・ Rất khó tìm được các thông tin liên quan đến công việc có thể tận dụng được nhiều thứ tiếng và kỹ năng. (Nữ ở độ tuổi 20–29)
しろまる Về những khó khăn sau khi đi làm
・ Tôi làm công việc bằng tiếng Anh và trường hợp công ty cho ngưng lớp học tiếng Nhật thì việc hòa nhập vào xã hội Nhật thật khó. Tôi phải làm thêm giờ nhiều và việc theo học tại trường
tiếng cũng rất vất vả. Tôi nghĩ nên bắt buộc công ty phải hỗ trợ cho nhân viên người nước ngoài học tiếng. Hoặc là, tôi mong muốn được hỗ trợ hòa nhập vào xã hội Nhật tại các cộng
động, lớp học hay sự kiện của địa phương. (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Công ty nên có những chính sách hỗ trợ cho người nước ngoài nhiều hơn như là bằng lái xe, bằng lái máy, các loại bằng cấp liên quan đến công việc, lương thưởng cũng nên công bằng
với người nước ngoài. Các cơ quan thì nên có một trang web hỗ trợ trực tuyến để khi gặp khó khăn hoặc cần thiết thì có thể hỗ trợ mọi người các vấn đề gặp phải để có thể giải quyết xử lí
vấn đề nhanh. (Nam ở độ tuổi 20–29)v.v.Về tư cách lưu trú (2,403 câu trả lời)
・ Cần phải chỉ rõ những điểm không đạt khi thẩm tra về tư cách lưu trú. (Nam ở độ tuổi 40–49)
・ Nếu có được sự hỗ trợ cho quy trình lấy tư cách lưu trú, soạn những tài liệu cần thiết, v.v. thì tôi nghĩ sẽ rất tốt. (Nam ở độ tuổi 30–39)
・ Tôi nghĩ rằng nếu thủ tục đăng ký người vĩnh trú của Nhật được đơn giản hóa một chút thì sẽ tốt hơn. Nếu được như vậy thì tôi nghĩ sẽ tạo động lực để người nước ngoài cũng sẽ phấn
đấu tại Nhật. (Nam ở độ tuổi 20–29)
・ Chẳng hạn như khi có ý định tìm việc, v.v., tôi không biết rằng công việc nào thì có thể xin được visa. Có thể đó chỉ là vấn đề của riêng mình tôi, nhưng tôi nghĩ rằng nếu có được thông tin
chi tiết hơn thì sẽ tốt hơn. Tôi nghĩ rằng cả trên các trang Web, hay trên Hello Work hay cả các trang tìm người, nếu có thể tổng hợp một cách chi tiết thông tin về công việc có thể xin visa
hay các công việc mà người nước ngoài có thể lấy được visa thì sẽ rất tốt. Tôi xin lỗi trong trường hợp những thông tin như thế này đã được cung cấp rồi. (Nam ở độ tuổi 30–39)v.v.9
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Ý kiến, nguyện vọng, v.v./Người nước ngoài (2) Công việc/Cung cấp thông tin/Tư cách lưu trú
Về nhà ở (1,906 câu trả lời)
・ Khi chuyển việc và tìm căn hộ mới, tôi đã bị từ chối giao dịch từ một số chủ nhà và công ty bất động sản bởi lý do là người nước ngoài (dù tôi có nói tốt tiếng Nhật). Tình hình như thế là do
tùy công ty và tùy mỗi người, nên tôi cũng hiểu rằng cũng đành chịu thôi. Việc tìm nhà ở phù hợp cho người nước ngoài vất vả hơn tôi nghĩ. (Nữ ở độ tuổi 20–29 tuổi)
・ Bạn của tôi đã bị yêu cầu cho thu tiền cọc với số tiền không hợp lý sau khi chuyển đi khỏi nhà thuê. Năm ngoái, bản thân tôi lúc vừa mới đến Nhật cũng không hiểu rõ cho lắm quy trình
thuê nhà, nên có một giai đoạn tôi cũng bị bối rối. Tôi nghĩ nếu có một tài liệu hướng dẫn thuê nhà dành cho người nước ngoài mà nội dung bao gồm cả quy trình từ lúc tìm nhà cho đến
lúc chuyển đi thì sẽ rất hay. (Nữ ở độ tuổi 20–29)v.v.Về giáo dục (1,593 câu trả lời)
・ Những trẻ em được dắt đến Nhật từ quê nhà vào thời kỳ tuổi ấu thơ có cả tiếng Nhật lẫn tiếng mẹ đẻ đều ở trình độ giữa chừng, trẻ không biết mình thuộc về nước nào và bản sắc cũng
không được xác lập chắc chắn, dẫn đến khá nhiều trường hợp trở nên cô độc. Tôi nghĩ tại các cơ sở giáo dục, không chỉ dạy tiếng Nhật mà đồng thời cần phải có chính sách phù hợp để
trẻ có thể đồng thời học thêm tiếng mẹ đẻ. (Nam ở độ tuổi 30–39)
・ Tôi mong muốn được cung cấp các thông tin như chọn trường, độ khó của các kỳ thi, v.v. từ tiểu học đến đại học. (Nam ở độ tuổi 30–39)
・ Tôi nghĩ sẽ tốt nếu trẻ em thuộc đối tượng có cha mẹ là người nước ngoài được tăng cường khả năng tiếng Nhật. Vì cha mẹ không phải là người bản xứ, nên tôi nghĩ rằng chẳng phải là
có xu hướng điểm số về môn quốc ngữ của trẻ bị thấp hay sao. Tôi nghĩ nên có đào tạo về đọc sách hay tư vấn, giáo dục nhằm hỗ trợ tiếng Nhật cho trẻ em thuộc thế hệ thứ 2. (Nữ ở độ
tuổi 50–59)v.v.Về giao lưu (1,527 câu trả lời)
しろまる Về giao lưu giữa người Nhật và người nước ngoài
・ Nếu có một cơ chế tạo điều kiện dễ giao lưu với người Nhật, không chỉ vào thời kỳ còn trẻ là sinh viên, mà từ độ tuổi 30 trở đi thì rất tốt. (Nam ở độ tuổi 30–39)
・ Thông thường có các lễ hội, buổi nhảy múa hay các sự kiện đặc biệt tại địa phương, nhưng tôi chỉ biết được những sự kiện này sau khi đã kết thúc. Tôi muốn biết rằng có sự kiện nào
được tổ chức tại cộng đồng của tôi. Nếu biết được thì tôi cũng có thể thu xếp tham gia được. Việc tham gia vào câu lạc bộ của những người có cùng suy nghĩ cũng gặp khó khăn. Để tìm
thấy dàn hợp xướng mà tôi có thể tham gia tại thành phố nơi mình sinh sống, tôi phải mất hơn 3 năm. Tôi nghĩ rằng những người nước ngoài cũng muốn được hội nhập vào địa phương.
Thế nhưng, chúng tôi không biết cần phải làm thế nào để thực hiện được điều đó. (Nữ ở độ tuổi 40–49)
・ Nếu có thể, tôi thật sự rất muốn khu vực nơi mình ở có thể lập ra một hội nhóm giúp liên kết giao lưu giữa những người nước ngoài và người Nhật yêu thích người nước ngoài (bao gồm
yêu thích tiếng nước ngoài, văn hoá, phong tục, cách nói chuyện, v.v.). Bản thân tôi đã ở Nhật được 5 năm, nhưng vì không được học tiếng Nhật một cách bài bản, cũng như vì bận rộn
công việc gia đình nên không có thời gian để tự học tập giúp nâng cao trình độ tiếng Nhật. Hiện tại tôi chỉ giao tiếp được trong đời sống bình thường, và đọc được khoảng 50–60% văn bản
tiếng Nhật mà trường học của con gửi về. Tôi làm việc tại cửa hàng tiện ích nhưng trình độ nghe còn chưa tốt. Bởi vậy, tôi luôn mong muốn có thể tham gia được những sự kiện liên kết
giữa người Nhật và người nước ngoài. Mong muốn được nói chuyện, giao lưu cùng với họ để có thể tự tin giao tiếp hơn. Bản thân tôi là một người sống rất thoáng và thích nói chuyện,
nhưng lại lo họ chê tôi nghe nói kém và không muốn nói chuyện cùng, nên tôi rất khó bắt chuyện được với người Nhật. Nhiều khi đi chơi cùng nhóm bạn 4 người, có tôi và ba người còn lại
là người Nhật. Tôi rất vui vì họ vẫn luôn chơi cùng tôi, nhưng nhiều khi họ nói chuyện với nhau rất nhanh, bằng ngôn ngữ và cách nói giữa người Nhật với nhau nên tôi rất khó hiểu, khó
bắt kịp câu chuyện của họ, nên chỉ ngồi nghe được chỗ nào thì nghe mà không thể nói chuyện cùng. Lúc như thế tôi thực sự rất lẻ loi, rất ngại, chỉ mong giây phút nói chuyện ấy qua thật
nhanh cho đỡ tủi. Ở chỗ làm, có một bạn người Nhật rất hiền và tốt bụng, thật sự tôi rất muốn nói chuyện thật nhiều với cô ấy nhưng vì sợ nói cô ấy không hiểu cách nói chuyện của tôi
nên chẳng bao giờ tôi dám bắt chuyện với cô ấy cả. Tôi thật sự rất mong muốn có một nơi giao lưu không phân biệt chủng tộc, không phân biệt quê quán, mọi người có thể vui vẻ hoà
nhập với nhau tại nơi đây! (Nữ ở độ tuổi 20–29)
・ Điều tôi cảm thấy khó khăn nhất là việc người nước ngoài truy cập vào những thông tin có thể giúp đỡ họ hòa nhập vào xã hội. Đặc biệt là việc truy cập vào những thông tin không chính
thức ở mức độ cộng đồng (chẳng hạn như hoạt động của các hiệp hội khu phố, lễ hội, làm quen hàng xóm láng giềng, v.v.) Tôi có thể nói tiếng Nhật mà không gặp trở ngại gì, dù vậy việc
có được các thông tin liên quan đến hoạt động của địa phương không dễ dàng chút nào. Điều đó là lý do khiến tôi chỉ có thể sống trong cộng đồng của người nước ngoài. Cố gắng lắm
mấy đứa con trai tôi mới được nuôi dạy tại đây, nhưng tôi không hề cảm thấy chúng là một thành viên của xã hội Nhật. Tôi nghĩ rằng nguy cơ giảm dân số mà nước Nhật đang đối diện sẽ
làm thay đổi suy nghĩ của người Nhật theo chiều hướng tốt, và nếu dần dần người nước ngoài được xã hội tiếp nhận thì tốt biết mấy. (Nữ ở độ tuổi 60–69)
しろまる Về giao lưu giữa đồng bào cùng quốc tịch
・ Tôi muốn biết những người cùng đất nước với tôi có khoảng bao nhiêu và sống ở những khu vực nào. Tôi còn muốn biết cộng đồng của những người cùng đất nước với tôi. (Nữ ở độ tuổi
30–39) v.v.10Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Ý kiến, nguyện vọng, v.v./Người nước ngoài (3) Giáo dục/Nhà ở/Giao lưu
Về y tế (1,987 câu trả lời)
・ Tôi gặp rắc rối vì không thể truyền đạt triệu chứng mắc phải khi bị bệnh cho cơ sở y tế và không được kê toa đúng bệnh, nên muốn có hỗ trợ đầy đủ hơn về việc này. (Nam ở độ tuổi 20–29)
・ Hiện nay tôi đang mang thai, nên mong muốn được giảng dạy chắc chắn để bản thân có thể hiểu được nhiều điều khi đến bệnh viện và được chẩn đoán. (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Tôi muốn biết nhiều hơn về chế độ trợ cấp khi mắc bệnh hiểm nghèo. (Nam ở độ tuổi 20–29)
・ Trường hợp của tôi thì gặp khó khăn khi đi bác sĩ. Tôi gặp khó khăn khi diễn đạt về bệnh của mình và cũng gặp khó khăn để hiểu những điều mà bác sĩ nói. Vì gặp trở ngại về ngôn ngữ, nên tôi
cũng không hiểu rõ bản thân có ổn hay không sau khi được khám bệnh. (Nữ ở độ tuổi 50–59) v.v.11Về tư vấn (1,495 câu trả lời)
・ Là cách thức hướng dẫn đến trung tâm hay cơ quan tư vấn phù hợp trong trường hợp ai đó đang gặp bất kỳ vấn đề nào cần phải giải quyết. Trong nhiều trường hợp, mọi người thường không hẳn
là hiểu rõ vấn đề cần được giải quyết, gây ra tình trạng bị mất nhiều công sức do phải di chuyển từ bộ phận này đến bộ phận khác. Chuyên gia nghe điều cần tư vấn lần đầu cần phải đưa ra hỗ trợ
phù hợp cho người đang bí bách. Ngoài ra, vì tại Nhật có nhiều công việc liên quan đến giấy tờ, vì lý đó mà người ta do dự đối với việc yêu cầu hỗ trợ. Đặc biệt điều này thường xảy ra với những
người không có đầy đủ tự tin về ngôn ngữ. (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Việc đi cùng hoặc hỗ trợ ở cơ sở y tế, cơ quan nhà nước trở thành đầu mối tư vấn bằng tiếng mẹ đẻ là cần thiết (Nếu nhờ người quen hay bạn bè tư vấn thì thường có nhiều thông tin sai lệch. (Nam
ở độ tuổi 40–49)
・ Có một tổ chức bao gồm những người có chuyên môn chuyên trách về các lĩnh vực khác nhau, để có thể tư vấn khi người nước ngoài có thể xin tư vấn hỗ trợ khi gặp khó khăn về lĩnh vực đó. (Nữ
ở độ tuổi 40–49)
・ Trường hợp lỡ vào làm tại các công ty "đen" thì có xu hướng xảy ra rắc rối, nên tôi nghĩ nếu có cửa sổ tư vấn hoặc thời hạn nới lỏng visa thì sẽ giúp ích được cho nhiều người. (Nam ở độ tuổi 40–49)・ Trong việc hỗ trợ dành cho người nước ngoài (đặc biệt là các loại tư vấn), tôi mong muốn nhân viên có ý thức rằng "đối phương là người nước ngoài" và phải giảng giải từ điều cơ bản nhất. Cho dù
là kiến thức thông thường đương nhiên là người Nhật nắm, nhưng cũng có trường hợp người nước ngoài không biết. (Nữ ở độ tuổi 20–29)
・ Thỉnh thoảng tôi gặp khó khăn trong việc truy cập thông tin và nhận hỗ trợ bằng tiếng mẹ đẻ. Ngoài ra, cũng có lúc tôi cảm nhận rằng vì đó là vấn đề đặc biệt riêng liên quan đến tình trạng của tôi
nên không thể tìm kiếm trên mạng hoặc không biết hỏi ai. (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Tôi muốn có hỗ trợ đầy đủ hơn đối với các câu hỏi liên quan đến visa, hay thuế, và các hỗ trợ về kinh tế chẳng hạn như là người nước ngoài thì nên tìm việc ở đâu, v.v. Ngoài ra, tôi cũng quan tâm
đến việc hỗ trợ sức khỏe tinh thần và cách thức vượt qua khi cảm thấy lẻ loi tại nước ngoài. (Nữ ở độ tuổi 20–29)v.v.Về thuế (2,196 câu trả lời)
・ Người lần đầu đến Nhật không hiểu về việc khai thu nhập và thuế cuối năm. (Nam ở độ tuổi 20–29)
・ Tư cách lưu trú và chế độ thuế phức tạp và khó. Tháng 3 do chuyển việc nên tôi đã chuyển nhà từ Nagoya đến Osaka, nhưng vì không nắm hết thủ tục nên đã không làm ngay việc gia hạn tư cách
lưu trú và thủ tục thuế thị dân, nên tôi lo lắng điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến việc xin vĩnh trú về sau. Tôi nghĩ sẽ rất tốt nếu có được danh sách kiểm tra như khi tiến hành thủ tục chuyển đi tại cơ
quan hành chính thành phố. (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Khi bạn về nước khoảng thời gian lâu trên 1 năm nên báo lại với chính quyền địa phương để không bị trừ thuế cư trú năm đó, nhưng tôi đã không biết đến điều này khi về Việt Nam sinh em bé, sang
lại Nhật tôi vẫn phải đóng tiền thuế cho tỉnh khi tôi không hề sinh hoạt tại tỉnh. (Nữ ở độ tuổi 20–29)v.v.Về lương hưu (1,749 câu trả lời)
・ Tôi muốn có sự liên kết với chế độ lương hưu của đất nước tôi. (Nam ở độ tuổi 40–49)
・ Vì các giá trị quan và văn hóa có sự khác biệt, nên nếu được dạy về "Các quy tắc khi sống ở Nhật" ở một mức độ nào đó thì ít nhiều sẽ giảm đi những việc phiền toái gây ra cho người khác. Ngoài
ra, tôi nghĩ cũng cần giải thích về chế độ tiền thuế và lương hưu. Tôi có đi học tại trường của Nhật nên có thể hiểu được tiếng Nhật và bản thân có thể tra cứu thông tin, nhưng phần nhiều người chỉ
hiểu được tiếng Nhật đàm thoại trong sinh hoạt hàng ngày, nên họ không thể nắm bắt được về "cơ cấu lương hưu", "các loại thuế", "thuế thu nhập", v.v. Tôi nghĩ là chắc sẽ có nhiều người nước
ngoài bị bắt phải làm việc không thỏa đáng vì không hiểu được những điều này. Ngoài ra, ở các đô thị lớn thì các cơ quan hành chính thành phố có những nơi có thể tư vấn bằng tiếng Anh, nhưng
nếu đi về các địa phương thì nhiều nơi không thực hiện được điều này nên tôi nghĩ sẽ có những người nước ngoài gặp khó khăn. Tôi nghĩ sẽ tốt nếu có nhiều môi trường mà người Nhật và người
nước ngoài có thể tôn trọng lẫn nhau và môi trường mà đôi bên có thể giúp đỡ lẫn nhau. (Nữ ở độ tuổi 20–29)v.v.Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Ý kiến, nguyện vọng, v.v./Người nước ngoài (4) Tư vấn/Y tế/Thuế/Lương hưu
Về bảo hiểm (1,589 câu trả lời)
・ Chẳng hạn như tôi muốn có nhiều thông tin hơn liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp. Thực tế tôi không biết cơ chế của bảo hiểm này là như thế nào. (Nữ ở độ tuổi 50–59)
・ Tôi nghĩ rằng cần phải giới thiệu về các loại bảo hiểm như bảo hiểm y tế, bảo hiểm ô tô, v.v., hay chế độ lương hưu. (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Cũng có một số cơ quan nhà nước thực hiện các nỗ lực nhằm giúp người nước ngoài có thể sống tốt hơn ở Nhật, nhưng tôi nghĩ rằng các cơ quan nhà nước này không thể dang tay ra giúp đỡ một
cách tích cực hơn. Thí dụ như trường hợp chúng tôi cần giải quyết vấn đề gì đó liên quan đến tiền thuế, lương hưu hay bảo hiểm thì chúng tôi không biết nên đi đến đâu để hỏi. Và cho dù chúng tôi
có được giúp đỡ bằng tiếng Anh thì cũng có trường hợp sự giúp đỡ đó không phù hợp. (Nữ ở độ tuổi 60–69)v.v.Về tham gia chính trị (514 câu trả lời)
・ Với tư cách là người đã sống thời gian dài tại Nhật, tôi nghĩ rằng người nước ngoài cũng có thể cống hiến mang tính xây dựng cho các vấn đề mang tính chính trị. Lý do là vì người nước ngoài có
nền tảng văn hóa khác biệt và nhìn sự vật sự việc từ quan điểm khác biệt. Để tìm ra các biện pháp giải quyết phù hợp, cần thảo luận từ nhiều góc độ khác nhau. (Nữ ở độ tuổi 60–69)
・ Với tư cách là người nước ngoài thì không cần phải tham gia vào chính trị của Nhật, nhưng hiện nay tôi cảm thấy rằng đối với các chính sách của chỉnh phủ Nhật đều phó thác vào việc người "đã
biết" tất cả mọi việc ở xung quanh người nước ngoài sẽ truyền đạt cho nhau, nên bản thân mọi người không tìm kiếm các phương thức truyền đạt một cách tích cực. Tôi nghĩ rằng có thể là nhờ vào
việc người nước ngoài ở mức độ tối thiểu có tư cách lưu trú dài hạn tham gia chính trị ở mức tối thiểu có thể tạo ra được sự quan tâm của cơ quan chính phủ đối với người nước ngoài sống tại Nhật,
và từ điều này có thể đảm bảo được việc lấy được các thông tin chính xác. (Nam ở độ tuổi 30–39)
・ Hiện tại thì tôi không chịu điều gì bất lợi đặc biệt, nên cũng không nghĩ ra ý kiến gì cụ thể. Thế nhưng, cho dù đang có quyền vĩnh trú nhưng quốc tịch của tôi vẫn là Philippines nên không có quyền
bầu cử, và điều này cũng có lúc làm cho tôi có cảm giác bị xa lánh trong các hoạt động liên quan đến việc này. Bản thân tôi từ thuở thơ ấu đã sống tại Nhật nên tự hào rằng mình gần như là người
Nhật, nhưng vì không có quyền bầu cử nên mối quan tâm của tôi đối với chính trị cũng khá mờ nhạt. (Nữ ở độ tuổi 20–29)v.v.Về tài khoản ngân hàng, thẻ tín dụng, cho vay (1,587 câu trả lời)
・ Ban đầu khi đến Nhật, điều quan trọng nhất đối với tôi là có được điện thoại di động, căn hộ và tài khoản ngân hàng. Ngân hàng nếu không có địa chỉ thì không thể mở tài khoản. Căn hộ thì không
cho người không có tài khoản ngân hàng và số điện thoại di động thuê. Công ty điện thoại thì không bán điện thoại di động cho người không có tài khoản ngân hàng. Vấn đề của tôi hiện tại là vì đã
có gia đình, nên tôi đang tìm ngân hàng cho vay mua nhà để vợ chồng tôi mua nhà. (Nam ở độ tuổi 30–39)
・ Mẹ tôi là người vĩnh trú sống ở Nhật hơn 10 năm. Bà dự định mở tài khoản tiết kiệm ở tại một ngân hàng lớn nên đã đặt hẹn đến chi nhánh, thế nhưng người phụ trách của ngân hàng đã liên lạc
đến và từ chối rằng: "Bà có biết tiếng Nhật không? Bà có thể sử dụng màn hình cảm ứng không? Nếu không thể sử dụng màn hình cảm ứng thì không thể mở tài khoản." Cùng một lý do là nếu bản
thân người mở tài khoản không biết tiếng Nhật cũng như không thể thao tác màn hình cảm ứng thì người phụ trách đó cũng đã từ chối thẳng thừng cho dù tôi bảo rằng tôi là người biết tiếng Nhật sẽ
ở bên cạnh và sẽ chỉ cách thao tác cho mẹ. Điều này làm tôi cảm giác bị phân biệt đối xử đến nỗi tôi muốn viết thư để khiếu nại đến các cơ quan nhà nước và Bộ Tư pháp. Nếu có thể được xử lý
một cách linh hoạt thì chúng tôi cũng sẽ dễ sinh hoạt hơn. Tôi mong rằng mọi người sẽ không có định kiến mà hãy đối xử bình đẳng. (Nữ ở độ tuổi 30–39)
・ Vì họ tên dài nên tôi không thể làm thẻ tín dụng, hoặc không thể mở tài khoản ngân hàng, v.v., và vì chỉ mỗi họ tên thôi mà cũng gặp vấn đề nên tôi nghĩ rằng nên cải thiện về điều này. (Nam ở độ
tuổi 20–29)v.v.Về thảm họa (752 câu trả lời)
・ Cơ chế tiếp nhận cư dân người nước ngoài tham gia các hoạt động liên quan đến phòng chống thiên tai của hiệp hội khu phố không đầy đầy đủ. (Nữ ở độ tuổi 60–69)
・ Ở nhà của tôi có thiết bị thông báo, và đôi khi còi báo động hú. Không biết có phải vì tôi không thể hiểu thông báo hay không, mà chỉ có thể nhìn thấy hiển thị "Thông báo khẩn cấp" trên màn hình.
Điều này thật sự khiếp sợ. Vì vậy, tôi nghĩ rằng nên có hình ảnh hoặc trang web có ghi nhiều loại còi báo động hay thông báo. Nếu được như vậy thì tôi có thể học được. Ứng dụng Safety Tips hữu
ích, nhưng vào lúc nọ, khi còi báo động thông báo hỏa hoạn hú vào lúc 1 giờ sáng, tôi đã không thể hiểu được điều gì đang xảy ra. (Nữ ở độ tuổi 20–29)
・ Có thể thêm những cảnh báo khi có thiên tai bằng tiếng mẹ đẻ, vì nhiều người nước ngoài có thể ít xem thời sự, hoặc có xem nhưng lại không hiểu hết nội dung. Nên tôi nghĩ khi cảnh báo thảm họa
như sóng thần, núi lửa nên thêm ngôn ngữ mẹ đẻ của họ vào. (Nữ ở độ tuổi 20–29)v.v.12
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Ý kiến, nguyện vọng, v.v./Người nước ngoài (5) Tham gia chính trị/Bảo hiểm/Tài khoản ngân hàng, v.v./Thảm họa
Về nuôi con (1,205 câu trả lời)
しろまる Về việc cung cấp thông tin
・ Vì không đọc được thư gửi từ trường học của con, nên tôi phải giao phó việc đó cho chồng. (Nữ ở độ tuổi 40–49)
・ Các thông tin về nuôi con, thông tin công việc nhìn từ phía người nước ngoài thì rất khó và khó thu thập. Người Nhật có mạng lưới thông tin chẳng hạn như Hội các bà mẹ, v.v. (Nữ ở độ
tuổi 40–49)
・ Bản thân tôi du học Nhật Bản từ bậc đại học, nên tôi hầu như không biết về trường tiểu học của Nhật, nên mong muốn được hỗ trợ liên quan đến giáo dục con cái. (Nam ở độ tuổi 40–49)
しろまる Về những khó khăn liên quan đến việc nuôi con
・ Các cửa sổ tư vấn liên quan đến giáo dục và nuôi dạy con, trong khi mang thai, trầm cảm sau sinh, v.v. tất cả đều bằng tiếng Nhật nên tôi không thể truyền đạt trọn vẹn cảm xúc của bản
thân cũng như điều muốn trao đổi, và cảm thấy rằng không có nơi để có thể yêu cầu giúp đỡ. (Nữ ở độ tuổi 30–39)v.vVề qua đời (bảo đảm nơi chôn cất, v.v.) (500 câu trả lời)
・ Tôi muốn có thêm thông tin về nơi chôn cất và đêm canh thức trong lễ tang, v.v. (Nữ ở độ tuổi 20–29)
・ Hiện tại, việc mua nhà tại Nhật của người nước ngoài ngày càng tăng, nhưng khi thừa kế tài sản thì cần phải quay về nước để lấy rất nhiều giấy tờ, điều này thiếu tính nhân văn và tôi
mong muốn được cải thiện. (Nam ở độ tuổi 40–49)
・ Nếu không may bị chết tại Nhật do thiên tai hoặc trong quá trình làm việc thì việc đưa thi thể về Việt Nam cần được hỗ trợ. (Nữ ở độ tuổi 20–29)v.v.Khác (550 câu trả lời)
しろまる Về sự lẻ loi, cô lập và sức khỏe tinh thần
・ Đối với người nước ngoài như tôi, Nhật Bản thật sự thoải mái, nhưng vì không có kiến thức về ngôn ngữ nên tôi không thể làm quen với người Nhật và thường xuyên cảm thấy lẻ loi. (Nữ
ở độ tuổi 20–29)
・ Là người nước ngoài thì việc nhờ giúp đỡ không dễ dàng gì. Kể từ khi sức khỏe tinh thần trở nên xấu đi, tôi cảm thấy có gì đó không ổn. Cho dù biết rằng có điều gì đó không ổn, nhưng
cũng khó nói với ai đó để nhờ giúp đỡ. (Nữ ở độ tuổi 40–49)
・ Tôi nghĩ rằng mình cần được hỗ trợ liên quan đến sức khỏe tinh thần. Bởi vì tôi cảm thấy rất bất an về tương lai của mình. (Nữ ở độ tuổi 20–29)
しろまる Về việc nhập quốc tịch
・ Những người đã sống lâu tại Nhật như tôi mong muốn có thể dễ dàng lấy được quốc tịch Nhật. Vì ngoài Nhật ra thì tôi không nghĩ rằng mình sẽ sống tại nước khác, nên việc xin hộ chiếu
của đất nước tôi, v.v. cũng rất phiền phức. Tôi đã sinh sống tại Nhật lâu và suy nghĩ cũng như lối sống cũng không khác người Nhật. Tôi nghĩ rằng nếu có chế độ để những người nước
ngoài như thế có thể nhập quốc tịch Nhật Bản dễ dàng thì rất tốt. (Nữ ở độ tuổi 30–39)
しろまる Về tôn giáo
・ Tôi là một tín đồ đạo Hồi. Người theo đạo Hồi chúng tôi phải trùm khăn trùm đầu. Thế nhưng tại một số nơi làm việc thì không được đeo khăn trùm đầu lên người. Điều này thật sự gây khó
khăn đối với tôi. (Nữ ở độ tuổi 20–29)
・ Tôi sẽ cảm thấy rất vui nếu gần chỗ tôi ở có tiệm bán thực phẩm Halal. (Nam ở độ tuổi 20–29)
しろまる Về hôn nhân đồng giới
・ Hôn nhân đồng giới là bình đẳng. Tôi và chồng người Nhật đã kết hôn dựa trên luật pháp của nước tôi tại Đại sứ quán ở Tokyo. Tôi đang lo lắng về việc chế độ thuế của Nhật không công
nhận anh ấy là chồng tôi. Ý tôi muốn nói là nếu tôi chia tiền với chồng tôi thì có bị đánh thuế tặng cho tài sản không? Nếu tôi mất đi, chồng tôi phải bán căn nhà của chúng tôi (hiện tôi đang
đăng ký đứng tên là chủ sở hữu), và theo luật pháp Nhật Bản thì chồng tôi không được công nhận là chồng của tôi về mặt pháp lý, nên chắc chồng tôi phải trả thuế thừa kế với số tiền lớn
phải không? Đây là điều mà tôi lo lắng nhất và tôi nghĩ không công bằng. (Nam ở độ tuổi 50–59)
しろまる Những khó khăn, v.v. khác trong cuộc sống
・ Với thời điểm hiện tại vật giá leo thang. Đồng yên Nhật mất giá thì lao động người nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn, rất mong chính phủ nước Nhật xem xét. Xin cảm ơn. (Nam ở độ tuổi
20–29)
・ Vì năng lực tiếng Nhật của tôi còn kém, nên khi xử lý rác cỡ lớn, tôi không thể đăng ký bằng máy tính, còn nếu gọi điện đăng ký thì thỉnh thoảng tôi không thể diễn đạt rõ ý, nên hơi bối rối.
(Nam ở độ tuổi 60–69)
・ Tôi mong là sẽ có thêm nhiều phần thưởng tán dương những bạn người nước ngoài đã cống hiến và có thành tích tại nước Nhật. (Nam ở độ tuổi 20–29)v.v.13
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Ý kiến, nguyện vọng, v.v./Người nước ngoài (6) Nuôi con/Qua đời/Khác
Khảo sát lấy đối tượng là cơ quan trực
thuộc, v.v.
49.0%
35.9%
33.5%
32.8%
31.4%
21.6%
15.3%
14.6%
11.2%9.5%23.8%4.7%Kỹ sư - Trí thức - Nghiệp vụ quốctếThực tập kỹ năng
Du học
Người vĩnh trú
Kỹ năng đặc định
Vợ/chồng v.v. của người Nhật
Người định trú
Đoàn tụ gia đình
Hoạt động đặc định
Vợ/chồng v.v. của người vĩnh trú
Các tư cách lưu trú khác có thể
làm việc (Giảng dạy, v.v.)
Các tư cách lưu trú khác không
được phép làm việc (Hoạt động
văn hóa, v.v.)
Ngành giáo dục,
hỗ trợ học tập
(192 đơn vị)
34.6%
Ngành sản xuất
(93 đơn vị)
16.8%
Ngành dịch vụ
(không được
phân vào Các
phân loại khác)
(56 đơn vị)
10.1%
Dự án dịch vụ
phức hợp (32
đơn vị)5.8%Ngành xây dựng
(28 đơn vị)5.0%Ngành bán buôn,
bán lẻ (28 đơn vị)5.0%Các phân loại
khác (126 đơn vị)
22.7%
しかく Ngành nghề của người trả lời (dựa theo phân loại ngành nghề tiêu chuẩn của Nhật Bản) theo thứ tự giảm dần lần lượt là "Ngành giáo dục, hỗ trợ học tập"
(34.6%), "Ngành sản xuất" (16.8%), "Ngành dịch vụ (không được phân vào các phân loại khác) " (10.1%).
しかく Tư cách lưu trú của người nước ngoài trực thuộc theo thứ tự giảm dần lần lượt là "Kỹ sư - Trí thức - Nghiệp vụ quốc tế" (49.0%), "Thực tập kỹ năng" (35.9%),
"Du học" (33.5%).
しかく Số lượng người nước ngoài trực thuộc theo thứ tự giảm dần lần lượt là "1~10 người" (30.5%), "101~500 người" (28.3%), "11~50 người" (18.0%).
しかく Về Cơ chế tư vấn cho người nước ngoài trực thuộc, tỷ lệ số cơ quan trực thuộc, v.v. đã trả lời "Có" dưới hình thức nào đó chiếm 93.3%, tỷ lệ số cơ quan trực
thuộc, v.v. đã trả lời "Không" chiếm 5.2%.
(n=555)
(n=555)
(n=555)
(n=540)
Phân loại
Ngành nghề
(n=555)
42.9%
34.4%
17.1%
14.6%6.5%1.3%1.1%Pháp nhân (thu lợi)
Cơ quan giáo dục
(Trường đại học, trường dạy nghề,
trường tiếng Nhật, v.v.)
Nghiệp đoàn
Cơ quan hỗ trợ đăng ký
Pháp nhân (phi lợi nhuận)
Khác
Chủ hộ kinh doanh cá thể
Tư cách lưu trú của người nước
ngoài trực thuộc
Cơ chế tư vấn cho người nước ngoài trực thuộc
234 đơn vị
43.3%
57 đơn vị
10.6%
213 đơn vị
39.4%
28 đơn vị5.2%8 đơn vị1.5%Có (Có thiết lập cửa sổ tư
vấn chính thức và có
nhân viên làm công việc
chính là hỗ trợ tư vấn)
Có (Có thiết lập cửa sổ tư
vấn chính thức nhưng
không có nhân viên làm
công việc chính là hỗ trợ
tư vấn)
Có (Không thiết lập cửa
sổ tư vấn chính thức
nhưng thực tế có tiếp
nhận hỗ trợ tư vấn tại các
phòng ban, v.v.)
Không có
Khác
* Số lượng các cơ quan trực thuộc, v.v. đã trả lời đang có
người nước ngoài có tư cách lưu trú đó trực thuộc dù chỉ là
một người (có thể trả lời với nhiều lựa chọn)
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Kết quả chính/Cơ quan trực thuộc, v.v. (1) (Các đặc điểm của người trả lời)
1~10 người
(169 đơn vị)
30.5%
11 người~50
người
(100 đơn vị)
18.0%51người~100
người
(55 đơn vị)9.9%101~500
người
(157 đơn vị)
28.3%
501 người
trở lên
(59 đơn vị)
10.6%
Không có người
nước ngoài trực
thuộc
(15 đơn vị)2.7%Số người nước ngoài trực thuộc14 しかく Ở phần Nội dung trao đổi từ người nước ngoài trực thuộc, "Làm việc (điều kiện làm việc, xin việc, đổi nghề, v.v.)" nhiều nhất 61.0%, tiếp theo là "Tư cách lưu trú" (52.4%)
và "Học tiếng Nhật" (42.4%). Tại khảo sát lấy đối tượng là người lưu trú nước ngoài, kết quả hỏi nội dung trao đổi với cơ quan trực thuộc và xếp hạng thứ 1 giống nhau,
nhưng từ xếp hạng thứ 2 trở đi thì thứ tự thay đổi.
しかく Ở phần Tần suất trao đổi từ người nước ngoài trực thuộc, nhiều nhất là "Tuần 1 vụ trở lên" (30.2%), tiếp theo là "Tháng 1 vụ trở lên (tuần dưới 1 vụ)" 28.0%. "Nửa năm
dưới 1 vụ" 13.9%.
しかく Nếu xem tần suất trao đổi từ người nước ngoài trực thuộc theo số lượng người nước ngoài trực thuộc thì thấy tại cơ quan trực thuộc, v.v. không có nhiều người nước
ngoài trực thuộc (1~10 người) thì cũng có khoảng 1 phần 4 (23.0%) nhận được trao đổi từ người nước ngoài trực thuộc với tần suất tháng 1 vụ trở lên, khoảng 3 phần 4
(74.0%) thì đã từng nhận được trao đổi từ người nước ngoài trực thuộc với một tuần suất nào đó.
Nội dung trao đổi Nội dung trao đổi (theo hoạt động/trích)
Công
việcTưcách
lưu trú
Học
tiếng
NhậtQuanhệ con
người
Cơ quan giáo
dục (n=152)
52.6% 78.9% 67.1% 40.1%
Nghiệp đoàn
(n=91)
83.5% 42.9% 54.9% 71.4%
Cơ quan hỗ
trợ đăng ký
(n=77)
83.1% 48.1% 46.8% 70.1%
Chỉ chọn Pháp
nhân (thu lợi)
(n=176)
54.0% 38.1% 17.0% 25.6%
61.0%
52.4%
42.4%
41.3%
40.0%
39.8%
29.0%
27.5%
26.0%
25.8%
25.1%
21.4%
19.3%
14.1%
12.3%7.6%6.3%4.3%3.2%0.9%0.9%0.4%6.3%
60.7%
34.6%
27.1%
19.5%
17.3%
23.0%
35.7%
26.1%6.9%17.9%
28.3%
13.8%4.3%2.9%6.4%7.9%
11.4%
10.6%4.9%1.1%1.9%3.5%1.4%2.3%
Làm việc (điều kiện làm việc, xin việc, đổi
nghề, v.v.)
Tư cách lưu trú
Học tiếng Nhật
Quan hệ con người
Nhà ở
Y tế
Thuế
Lương hưu
Bà con họ hàng ở quê hương
Quan hệ tài chính
Bảo hiểm
Sức khỏe tinh thần
Mang thai, sinh con
Kết hôn, Ly hôn
Vấn đề về gia đình
Nuôi dạy trẻ
Giáo dục trẻ em
Phân biệt chủng tộc, cơ hội bình đẳng, tôn
trọng cá nhân
Thiên tai
Bạo lực gia đình
Tử vong (đảm bảo khu mộ, v.v.)
Chăm sóc
Tham gia chính trị
Khác
Khảo sát lấy đối tượng là cơ
quan trực thuộc, v.v. (n=462)
Khảo sát lấy đối tượng là người
lưu trú nước ngoài (n=4,087)ーTuần 1 vụ trởlên30.2%
Tháng 1 vụ trở lên
(tuần dưới 1 vụ)
28.0%
3 tháng 1 vụ trở lên
(tháng dưới 1 vụ)9.3%Nửa năm 1 vụ trở lên (3 tháng
dưới 1 vụ)4.3%Nửa năm dưới 1 vụ
13.9%
Chưa từng được
nhờ tư vấn8.7%Không
biết5.7%(n=540)
Tần suất trao đổi4.1%14.0%
40.0%
52.9%
62.7%
18.9%
40.0%
29.1%
30.6%
25.4%
14.8%
11.0%
10.9%5.1%7.7%2.0%5.5%1.9%3.4%
28.4%
15.0%7.3%3.8%3.4%21.3%9.0%1.7%4.7%9.0%7.3%5.1%3.4%1~10 người
11~50 người
51~100 người
101~500 người
501 người trở lên
Tuần 1 vụ trở lên Tháng 1 vụ trở lên 3 tháng 1 vụ trở lên
Nửa năm 1 vụ trở lên Nửa năm dưới 1 vụ Chưa từng được nhờ tư vấn
Không biết
Tần suất trao đổi (theo số lượng người nước ngoài trực thuộc)
* Không hiển thị phần trăm đối với hạng mục từ 1.0% trở xuống
(n=169)
(n=100)
(n=157)
(n=55)
(n=59)
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Kết quả chính/Cơ quan trực thuộc, v.v. (2) (Nội dung trao đổi/Tần suất)15 しかく Ở phần Khó khăn khi hỗ trợ tư vấn người nước ngoài trực thuộc, ngoại trừ Không gặp khó khăn gì đặc biệt, "Người nhờ tư vấn không hiểu các chế độ của Nhật" (41.1%),
"Vì khó truyền tải chính xác điều muốn nói do vấn đề ngôn ngữ" (37.7%), "Vì vấn đề phát sinh do sự khác biệt về văn hóa và giá trị quan nên khó nắm bắt mấu chốt của vấn
đề" (29.2%) đặc biệt nhiều.
しかく Ở phần Hỗ trợ khi được trao đổi từ người nước ngoài trực thuộc, các mục theo thứ tự giảm dần lần lượt là "Đã tận dụng chế độ và nhân lực hiện có tại cơ sở kinh doanh
để hỗ trợ" (61.9%), "Sử dụng/giới thiệu các dịch vụ liên quan đến việc thu thập thông tin cần thiết để sinh hoạt tại Nhật" (53.2%), "Nỗ lực xem xét lại hay đưa vào áp dụng
chế độ để giải quyết trong cơ sở kinh doanh" (42.9%). Ngoài ra, nếu người nước ngoài trực thuộc càng ít thì có xu hướng tỷ lệ trả lời giảm tại nhiều lựa chọn.
Cơ cấu đề bạt nguyện vọng liên quan đến
hỗ trợ tư vấn
61.9%
53.2%
42.9%
32.9%
29.0%
26.2%
20.1%
15.4%4.1%7.8%
Đã tận dụng chế độ và nhân lực hiện có
tại cơ sở kinh doanh để hỗ trợ
Sử dụng/giới thiệu các dịch vụ liên quan
đến việc thu thập thông tin cần thiết để
sinh hoạt tại Nhật
Nỗ lực xem xét lại hay đưa vào áp dụng
chế độ để giải quyết trong cơ sở kinh
doanh
Trao đổi/hướng dẫn đến đoàn thể công
cộng tại địa phương hoặc cửa sổ được
đoàn thể công cộng địa phương ủy thác
bên ngoài để thiết lập
Trao đổi/hướng dẫn đến các cơ quan
nhà nước khác
Trao đổi/hướng dẫn đến cơ quan địa
phương của nhà nước
Trao đổi/hướng dẫn đến các chuyên gia
như luật sư, luật sư hành chính, v.v.
Trao đổi/hướng dẫn đến đoàn thể khác
cùng ngành hay đoàn thể ngành nghề
Trao đổi/hướng dẫn đến đoàn thể tư
nhân bên ngoài như NPO hay NGO, v.v.
Không thể hỗ trợ vì không biết nên trao
đổi/hướng dẫn đến nơi nào
Khácー41.1%
37.7%
29.2%
14.7%
11.0%5.4%4.5%4.5%3.5%3.5%3.2%3.0%1.1%0.9%4.3%
30.7%
Người nhờ tư vấn không hiểu các chế độ của
Nhật
Vì khó truyền tải chính xác điều muốn nói do
vấn đề ngôn ngữ
Vì vấn đề phát sinh do sự khác biệt về văn hóa
và giá trị quan nên khó nắm bắt mấu chốt của
vấn đề
Không chịu trao đổi cho đến khi vấn đề trở nên
phức tạp
Để hỗ trợ thì sẽ gây cản trợ cho công việc
Khó xây dựng quan hệ tin tưởng với người nhờ
tư vấn
Nội dung mang tính chuyên môn và không biết
nơi hướng dẫn phù hợp
Vì nội dung phức tạp và đan xen và có nhiều
dịch vụ cần phải kết nối, nên không biết nên
hướng dẫn từ đâu
Không có nơi liên kết để xử lý hỗ trợ người
nước ngoài
Không thể gánh chịu chi phí để người nhờ tư
vấn có thể được cung cấp dịch vụ
Không biết nên cung cấp thông tin nào
Không có cơ quan, v.v. cung cấp dịch vụ xử lý
vấn đề ở gần
Người nhờ tư vấn không ở địa vị để có thể sử
dụng chế độ hay dịch vụ
Vốn dĩ không biết nên làm thế nào thì tốt
Khác
Không gặp khó khăn gì đặc biệt
(n=462) (n=462)
Khó khăn khi hỗ trợ tư vấn Phương pháp hỗ trợ khi được trao đổi từ
người nước ngoài trực thuộc (theo số lượng
người nước ngoài trực thuộc/trích)
*(1) *(2) *(3) *(4)
1〜10 người
(n=125)
49.6% 28.0% 38.4% 14.4%
11〜50 người
(n=82)
53.7% 46.3% 39.0% 22.0%
101〜500
người
(n=148)
70.3% 69.6% 45.3% 42.6%9.4%7.4%5.9%4.1%0.4%Từng đề bạt nguyện vọng đến cơ
quan địa phương trực tiếp từ cơ
sở kinh doanh hoặc thông qua trụ
sở chính, v.v.
Từng đề bạt nguyện vọng đến
đoàn thể công cộng địa phương
trực tiếp từ cơ sở kinh doanh hoặc
thông qua trụ sở chính, v.v.
Từng đề bạt nguyện vọng thông
qua đoàn thể ngành nghề trực
thuộc
Từng đề bạt nguyện vọng thông
qua mối quan hệ cá nhân của
nhân viên
Từng đề bạt nguyện vọng thông
qua Hội đồng theo từng lĩnh vực
của kỹ năng đặc định (n=555)
* "Chưa từng đề bạt nguyện vọng" chiếm 81.4%
(Vì trả lời nhiều lựa chọn nên tổng lớn hơn 100%)*(1)*(2)*(4)*(3)
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Kết quả chính/Cơ quan trực thuộc, v.v. (3) (Khó khăn/Phương pháp hỗ trợ, v.v.)
Hỗ trợ khi được trao đổi16 しかく Ở phần Điều cảm thấy cần thiết khi hỗ trợ tư vấn, các mục theo thứ tự giảm dần lần lượt là "Kiến thức về hệ thống tư cách lưu trú" (76.9%), "Kiến thức về các hệ thống xã
hội khác nhau như thuế và lương hưu" (69.5%), "Năng lực giao tiếp" (62.7%), và nếu so sánh với điều mà người lưu trú nước ngoài kỳ vọng ở nhân lực hỗ trợ tư vấn, bao
gồm cả "Năng lực hỗ trợ đa ngôn ngữ" (57.3%) thì sẽ thấy Năng lực đàm thoại/ngôn ngữ xếp thứ hạng cao.
しかく Ở phần "Bạn có nghĩ rằng nên có nhân lực chuyên môn tư vấn và hỗ trợ người nước ngoài tại cơ sở kinh doanh (dưới đây gọi tắt là "nhân lực hỗ trợ") không?" và "Có
muốn tham gia/cho nhân viên tham gia nếu có cơ hội học tập về tư vấn/hỗ trợ người nước ngoài hay không?" đều có từ 80% trở lên trả lời mang tính khẳng định là ("Tôi
nghĩ như vậy" + "Tôi nói chung là nghĩ như vậy"). Tại cơ quan trực thuộc có ít người nước ngoài trực thuộc, thì có xu hướng tỷ lệ số câu trả lời mang tính khẳng định ít đi,
nhưng khoảng 70% trả lời mang tính khẳng định.
しかく Ở phần Điều xem trọng khi đào tạo tư vấn/hỗ trợ người nước ngoài, "Cơ quan nhà nước tiến hành đào tạo giúp" chiếm tỷ lệ nhiều nhất (42.9%).
Điều cảm thấy cần thiết khi hỗ trợ vư vấn
76.9%
69.5%
62.7%
57.3%
49.4%
38.7%
35.5%
29.5%
18.2%
13.5%
12.6%2.2%4.0%
49.3%
61.0%
36.8%
35.5%
26.2%
22.5%
40.6%
24.5%
13.5%
16.1%
21.2%1.5%6.9%
Kiến thức về hệ thống tư cách lưu trú
Kiến thức về các hệ thống xã hội khác nhau như thuế và lươnghưuNăng lực giao tiếp
Năng lực hỗ trợ đa ngôn ngữ/Năng lực trao đổi bằng ngôn ngữ
mẹ đẻ của bạn
Kiến thức về khác biệt văn hóa và giá trị quan
Kiến thức về chăm sóc tinh thần
Kiến thức về chăm sóc y tế và phúc lợi
Năng lực liên kết với bên cung cấp dịch vụ
Kiến thức về mang thai và sinh con
Kiến thức về nuôi dạy trẻ
Kiến thức về giáo dục trẻ
Khác
Không biết
Cơ quan trực thuộc, v.v.
(n=555)
Người lưu trú nước
ngoài (n=6,154)
Có muốn tham gia/cho tham gia đào tạo về tư
vấn/hỗ trợ người nước ngoài hay không
Điều xem trọng khi đào tạo tư vấn/hỗ trợ người nước ngoài
Tôi nghĩ như
vậy
39.3%
Tôi nói chung
là nghĩ như
vậy
39.1%
Tôi nói chung là không
nghĩ như vậy7.4%Tôi không nghĩ
như vậy
4.5% Tôi không
biết9.7%(n=555)
42.9% 23.4% 25.8% 5.0%2.9%Cơ quan nhà nước tiến hành đào tạo giúp
Cơ quan nhà nước công nhận, chứng minh giúp tính chuyên môn tiếp thu được qua đào tạo
Có biện pháp giúp giảm gánh chịu chi phí đào tạo
Đào tạo được thực hiện vào thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày lễ (Ngày nghỉ làm)
Khác
(n=555)
Bạn có nghĩ rằng nên có nhân lực hỗ trợ
tại cơ sở kinh doanh không?
Tôi nghĩ như
vậy
47.4%
Tôi nói chung
là nghĩ như
vậy
36.2%
Tôi nói chung là
không nghĩ như vậy5.8%Tôi không nghĩ
như vậy
3.2% Tôi không
biết7.4%(n=555)
Theo số lượng người nước ngoài
trực thuộc/trích
Tôi nghĩ như
vậy + Tôi nói
chung là
nghĩ như vậy
Tôi không
nghĩ vậy + Tôi
nói chung là
không nghĩ
như vậy
1~10 người
(n=169)
68.6% 15.4%
11~50
người
(n=100)
77.0% 15.0%
101~500
người
(n=157)
95.5% 3.2%
Theo số lượng người nước ngoài trực
thuộc/trích
Tôi nghĩ như
vậy + Tôi nói
chung là
nghĩ như vậy
Tôi không
nghĩ vậy +
Tôi nói chung
là không nghĩ
như vậy
1~10 người
(n=169)
67.4% 18.9%
11~50
người
(n=100)
74.0% 13.0%
101~500
người
(n=157)
88.5% 6.4%
* "Điều kỳ vọng ở nhân lực
hỗ trợ tư vấn"
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Kết quả chính/Cơ quan trực thuộc, v.v. (4) (Nhân lực hỗ trợ, v.v. (1))17 53.0%
35.7%5.6%2.7% 3.1%
Đào tạo (vài ngày ~
dưới 6 tháng)
Kỳ thi lấy bằng cấp,
chứng nhận
Đào tạo (6 tháng ~
dưới 1 năm)
Học môn học tại đại
học hay cao học
Khác
(n=555)
しかく Về phương pháp mà bạn nghĩ rằng phù hợp nhất trong đào tạo nhân lực hỗ trợ tại nhà nước, "Đào tạo (vài ngày ~ dưới 6 tháng)" chiếm tỷ lệ cao nhất là 53.0%.
しかく Ở phần, Điều kỳ vọng khi tuyển dụng nhân lực hỗ trợ, "Có năng lực tương đương trở lên với nhân lực được cơ quan nhà nước tuyển dụng để hỗ trợ tư vấn cho người
nước ngoài" chiếm tỷ lệ cao nhất là 46.6%.
しかく Đối với phần "Bạn có nghĩ rằng đào tạo để nhân lực hỗ trợ cập nhật kiến thức về chế độ và thông tin là cần thiết không", tổng của "Tôi nghĩ như vậy" và "Tôi nói chung là
nghĩ như vậy" là 89.5%.
しかく Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh và lưu trú đang xem xét về "điều phối viên hỗ trợ người nước ngoài" là nhân lực kết nối với hỗ trợ phù hợp dành cho người nước ngoài
đang gặp các khó khăn trong cuộc sống, và tỷ lệ số cơ quan trực thuộc đã trả lời rằng muốn cho nhân viên đi học hoặc muốn tuyển dụng người đã tham gia khóa học nếu
có thể được đào tạo liên quan đến điều phối viên hỗ trợ người nước ngoài ("Tôi nghĩ như vậy" + "Tôi nói chung là nghĩ như vậy") chiếm 71.9%.18Phương pháp mà bạn nghĩ là phù hợp nhất
trong đào tạo nhân lực hỗ trợ
Điều kỳ vọng khi tuyển dụng nhân lực hỗ trợ
46.6%
45.3%
32.1%
30.8%
26.9%1.5%Có năng lực tương đương trở lên với nhân lực
được cơ quan nhà nước (đoàn thể công cộng địa
phương, nhà nước, v.v.) tuyển dụng để hỗ trợ tư
vấn cho người nước ngoài
Được nhà nước hỗ trợ tài chính
Môi trường có thể biết được lý lịch của nhân lực
chuyên môn đang được xây dựng
Được nhà nước đảm bảo tính chuyên môn nhờ
vào kỳ thi lấy bằng cấp
Được nhà nước công nhận là "doanh nghiệp hỗ
trợ người nước ngoài một cách tích cực", v.v.
Khác
(n=464)
Bạn có nghĩ rằng việc đào tạo học lại
của nhân lực hỗ trợ là cần thiết không?
Tôi nghĩ
như vậy
48.1%
Tôi nói chung là
nghĩ như vậy
41.4%
Tôi nói chung là
không nghĩ như vậy2.2%Tôi không nghĩ
như vậy2.0%Tôi không
biết6.3%(n=555)
Bạn có muốn tuyển dụng, v.v. "điều phối
viên hỗ trợ người nước ngoài" không?
Tôi nghĩ như
vậy
33.3%
Tôi nói
chung là
nghĩ như
vậy
38.6%
Tôi nói chung là
không nghĩ như vậy8.8%Tôi không nghĩ
như vậy5.9%Tôi không
biết
13.3%
(n=555)
Theo loại hình hoạt động/trích
Tôi nghĩ như vậy +
Tôi nói chung là nghĩ
như vậy
Tôi không nghĩ vậy
+ Tôi nói chung là
không nghĩ như vậy
Cơ quan giáo dục
(n=191)
77.0% 9.4%
Nghiệp đoàn
(n=95)
86.3% 6.3%
Chỉ pháp nhân (thu
lợi)
(n=220)
60.9% 22.3%
Theo phân loại ngành nghề/trích
Tôi nghĩ như vậy +
Tôi nói chung là nghĩ
như vậy
Tôi không nghĩ vậy +
Tôi nói chung là
không nghĩ như vậy
Ngành giáo dục, hỗ
trợ học tập (n=192)
75.0% 11.5%
Ngành sản xuất
(n=93)
59.1% 26.9%
Các phân loại khác
(n=126)
71.4% 14.3%
Theo số lượng người nước ngoài trực thuộc/trích
Tôi nghĩ như vậy +
Tôi nói chung là nghĩ
như vậy
Tôi không nghĩ vậy
+ Tôi nói chung là
không nghĩ như vậy
1~10 người
(n=169)
57.4% 23.7%
11~50 người
(n=100)
67.0% 21.0%
101~500 người
(n=157)
84.1% 7.0%
Ở tất cả các đặc điểm, "Tôi nghĩ như vậy" + "Tôi
nói chung là nghĩ như vậy" đều từ 50% trở lên.
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Kết quả chính/Cơ quan trực thuộc, v.v. (5) (Nhân lực hỗ trợ, v.v. (2))
Ý kiến, nguyện vọng, v.v
しろまる Về cửa sổ tại nơi tư vấn, v.v.
・ Tôi muốn có thể giải quyết vấn đề chỉ ở 1 cửa sổ. Chẳng hạn như khi trao đổi, v.v. về thuế thì cho dù liên lạc đến cơ quan hành chính thành phố thì cũng bị chuyển qua yêu cầu liên lạc đến cục thuế, còn khi xác
nhận về chế độ thì cho dù có liên lạc đến Hiệp hội thực tập kỹ năng quốc tế cũng bị bảo rằng hãy xác nhận với Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh và lưu trú, v.v., phải liên lạc đến vài chỗ, nên nếu có một cửa sổ
tổng hợp thì sẽ tốt.
・ Vì hay xảy ra hiện tượng đùn đẩy trong giải quyết vấn đề giữa các tổ chức có liên quan, nên cần cải thiện chức năng các cơ quan phân theo chiều dọc. Làm rõ phân chia vai trò. Xúc tiến trực tuyến hóa của các
cơ quan hành chính tập trung vào việc xem người nước ngoài là đối tượng.
・ Đang trong tình trạng có nhiều trao đổi về mang thai, sinh con, nuôi dạy con, cho con đi nhà trẻ. Không chỉ giải thích, mà chúng tôi còn thường xuyên hỗ trợ soạn giấy tờ hay hỗ trợ trực tiếp khi liên hệ đến cơ
quan hành chính, v.v., nên dự đoán rằng giờ công cho những việc này sẽ gia tăng khi số lượng người nước ngoài tăng về sau. Vì thế, đối với phần "sinh con ~ nuôi dạy con, cho con đi học trường tiểu học", tôi
cảm thấy rằng cần có hỗ trợ một cách nhất quán, chứ không phải là ở từng bộ phận của các cơ quan hành chính.
・ Những lo lắng của nhân sự người nước ngoài cũng có nhiều vụ việc tế nhị, tuy chúng tôi cũng chú ý không để bị bất công, chẳng hạn như trường hợp xảy ra vấn đề thì lắng nghe ý kiến từ hai phía, nhưng thực
tế là ngày càng có nhiều người cả tin vào các thông tin đăng trên mạng xã hội. Để có thể cung cấp cho nhân sự thông tin chính xác, ngay cả với tư cách là nghiệp đoàn, chúng tôi cũng trao đổi cả với các cơ
quan có liên quan nếu có vấn đề gì phát sinh, nhưng thường xuyên bị đùn đẩy. Để giải quyết vấn đề, tốc độ xử lý cũng cần thiết, nên cả với tư cách là nghiệp đoàn, chúng tôi thật sự cảm thấy cần thiết làm rõ
về việc: "Vấn đề nào thì có thể giải quyết được ở đâu?"
・ Nên có cơ chế bố trí người có chuyên môn liên quan đến tư vấn và hỗ trợ cho người nước ngoài tại các cơ quan hành chính thành phố, quận, thị trấn và làng xã và kết nối với người (tổ chức) có thể giải quyết
phù hợp với từng khó khăn mà người nước ngoài gặp phải. Người có chuyên môn sẽ định kỳ đến các cơ sở kinh doanh có người nước ngoài trực thuộc để lắng nghe và xử lý các khó khăn.
しろまる Năng lực, cơ chế, v.v. của nhân viên tư vấn
・ Cần có hỗ trợ cho tham gia đào tạo để tiếp thu chuyên môn, v.v.
・ Rào cản ngôn ngữ rất lớn đối với việc người nước ngoài sinh hoạt thường ngày tại Nhật. Tôi hy vọng sẽ có hỗ trợ phát triển phương thức giao tiếp giữa những người không rành ngôn ngữ của nhau.
・ Khi sinh viên người nước ngoài gặp khó khăn thì đặc biệt có xu hướng trao đổi với bạn bè có cùng đất nước xuất thân và tự mình giải quyết. Điều này tuyệt đối không phải là điều không tốt, nhưng đôi khi nếu
báo cáo cho trường đại học thì cũng có trường hợp có khả năng xử lý phù hợp và nhanh chóng. Tôi nghĩ rằng với việc trang bị cửa sổ/nhân lực tư vấn để có thể trao đổi thoải mái thì có thể giải quyết được các
khó khăn của sinh viên người nước ngoài được cho là tồn tại tiềm tàng rất nhiều.
・ Tôi nghĩ rằng cần có trưởng nhóm kết nối những người nước ngoài lại và giữ vai trò trung gian giữa họ và các nhân viên người Nhật (trình độ N2).
・ Đại diện là người nước ngoài, và các công ty thuộc tập đoàn cũng tuyển dụng nhiều người nước ngoài nên việc này là chuyện thường ngày. Vì tôi không cảm thấy cần phải có nỗ lực gì đặc biệt, nên cũng
không nghĩ ra được ý gì.
・ Nếu chỉ hỗ trợ cho người nước ngoài thì nhân viên người Nhật sẽ bất mãn, nên cần phải thu xếp sao cho cân đối.
・ Tôi mong muốn chia sẻ thông tin về các trường hợp phát sinh và giải quyết các vấn đề ở các cơ quan tại các buổi họp định kỳ và tổ chức các buổi đào tạo người phụ trách về hỗ trợ người nước ngoài.
・ Tôi nghĩ cần phải có hỗ trợ để có thể chăm sóc sức khỏe tinh thần bằng tiếng mẹ đẻ cho người nước ngoài trực thuộc.
しろまる Xúc tiến xã hội cộng sinh
・ Kết hợp cộng đồng: Tôi nghĩ việc thông qua các sự kiện văn hóa, hoạt động giao lưu, hoạt động tình nguyện cộng đồng, v.v. để tăng cường mối liên hệ giữa người nước ngoài và cư dân địa phương, xúc tiến
cộng sinh là rất quan trọng.
・ Khi người nước ngoài sinh sống sẽ phát sinh rất nhiều vấn đề trên nhiều phương diện như tinh thần, kinh tế, văn hóa. Cần phải tuyên truyền về cộng sinh không chỉ cho người nước ngoài, mà còn cho cả người
Nhật để về sau này xã hội có thể tiếp nhận người nước ngoài.
・ Cho dù bản thân họ làm đúng, chẳng hạn như việc phân loại rác, v.v., nhưng nếu những người Nhật khác không làm đúng thì họ cũng sẽ bị đổ lỗi. Tuy rằng họ không bị phàn nàn trực tiếp, nhưng nếu bản thân
nghĩ rằng mình cũng bị va chạm phải những thứ mang tính phân biệt đối xử khác thì sẽ rất đau lòng. Tôi muốn xóa bỏ suy nghĩ mang tính phân biệt đối xử đối với người nước ngoài.
しろまる Nguyện vọng, v.v. đối với các cơ quan hành chính
・ Nếu các trang Web của các cơ quan ban ngành được đăng hai thứ tiếng Anh Nhật thì sẽ giúp ích rất nhiều. Tôi thường hay nghĩ rằng nếu tham khảo trang Web của Tổng Cục thuế hay Bộ Y tế, Lao động và
Phúc lợi, v.v., và có thể giải thích được chế độ thì rất hay.
・ Tôi sẽ rất biết ơn nếu được tổ chức cho tham gia các buổi đào tạo, v.v. nhằm tìm hiểu Luật quản lý xuất nhập cảnh và lưu trú.
・ Nếu có các điều khoản lưu ý (những điều muốn phổ biến toàn thể) chẳng hạn như: "Người có visa du học thì khi sinh hoạt phải cần lưu ý điều này!" thì tôi muốn làm thành tờ rơi và phát để phổ biến cho du học
sinh. Tôi muốn tờ rơi được làm để phổ biến toàn thể. Chẳng hạn như việc visa du học...thì (để làm) công việc làm thêm cần phải có (giấy phép hoạt động) ngoài tư cách lưu trú hay cách làm tái nhập cảnh đặc
biệt (được phép xuất nhập cảnh), v.v.
・ Sách hướng dẫn sinh hoạt và làm việc trên trang Web của Cục quản lý xuất nhập cảnh và lưu trú rất hữu ích.
・ Dù muốn giữ người nước ngoài làm lực lượng lao động, nhưng tôi gặp khó khăn vì không có chỗ ở cho người nước ngoài cư trú. Tình hình là nhân viên tại cơ sở kinh doanh của tôi phải hỗ trợ đối với những
việc như hỗ trợ tiếng nước ngoài tại cơ quan chính quyền địa phương hay hỗ trợ bưu điện (thông báo vắng mặt), v.v. Đòi hỏi cần phải tăng cường các dịch vụ công cộng dành cho người nước ngoài. v.v.19しかく Tại khảo sát này, chúng tôi đã tạo câu hỏi để trả lời tự do về "Bạn nghĩ hỗ trợ hay nỗ lực như thế nào là cần thiết khi giải quyết các khó khăn của người nước ngoài trực
thuộc cơ sở kinh doanh?" Dưới đây là một phần được trích từ các câu trả lời. Hơn nữa, ngoài việc chỉnh sửa một số lỗi chính tả dễ thấy hay các thông tin, v.v. có thể xác
định được cá nhân, đoàn thể, v.v., cũng có trường hợp chúng tôi chỉ đăng một phần trong số các ý kiến, v.v. nhận được.
Khảo sát cơ bản về người lưu trú nước ngoài năm tài chính 2023
— Trả lời tự do/Cơ quan trực thuộc, v.v.

AltStyle によって変換されたページ (->オリジナル) /